Monday, January 28, 2013

Nhạc Sĩ PHẠM DUY Và Vòng Hoa Thạch Thảo



Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ chăng mùa Thu đã chết rồi
   (Mùa Thu Chết- Phạm Duy)

Bài viết này đã đăng trên Tạp Chí Nguồn năm 2005 giữa sự ồn ào trên các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước (có sự góp tiếng của NS Phạm Duy) lúc bấy giờ, khi ông quyết định trở về Việt Nam sống phần đời còn lại. Ước vọng của ông được chết trên quê hương hôm nay đã toại. Một lần nữa tôi xin  mượn “Cụm Hoa Thạch Thảo” tiễn người nhạc sĩ tài hoa và đa sự để lại cho đời này. Nội dung bài viết đã qua một khoảng thời gian gần 8 năm – là một đề tài thời sự của ngày ấy và hôm nay – hẳn là chưa mất thời gian tính, và dù hay dở, khen chê cũng là chung một tấm lòng nghĩ tới con người và non nuớc. Xin nghiêng mình trước sự nghiệp âm nhạc mà NS Phạm Duy đã để lại cho văn học Việt nam. SN

***
Thú thật, tôi chưa nhìn thấy hoa thạch thảo, hoặc có khi đã nhìn thấy nhưng không biết. Có người nói với tôi hoa thạch thảo là loại hoa màu tím thường trồng quanh các ngôi mộ ở nghĩa trang. Phải chăng vì vậy mà NS Phạm Duy đã “ngắt cụm hoa thạch thảo” để khóc than cái chết của một mùa thu. Sau năm 75, người CS đã lên án Phạm Duy viết bản nhạc này để làm điếu tang Mùa thu cách mạng tháng Tám. 30 năm sau, tác giả “Mùa Thu Chết” đã trở về nhận lại vòng hoa màu tím ấy. Tôi xin mượn vòng hoa ấy để mở đầu câu chuyện người về.

Vừa qua, tình cờ tôi được các anh trong BBT tạp chí Nguồn cho “đọc ké” trước bài viết của anh T-Vấn nói đến cái sự trở về của Nhạc sĩ Phạm Duy. Trong vài tuần lễ trở lại đây tôi lại đọc được nhiều bài trên các trang mạng, trên báo chí trong nước phỏng vấn NS Phạm Duy cùng những Email từ tứ xứ bàn tán về người nhạc sĩ này.

Tôi hoàn toàn đồng ý với anh T-Vấn. Bài viết của anh có những nhận định tinh tế, thể hiện một tấm lòng nhân bản và độ lượng. Nếu như tôi không được đọc những bài báo, những Email; không được “nghe” những lời phát biểu của NS Phạm Duy thì tôi sẽ “thương” người nhạc sĩ tài hoa này vô cùng khi vắng bóng ông ở hải ngoại và cả khi vắng bóng ông trên thế gian này. Nhưng khi đọc được những câu trả lời của ông với báo chí trong nước, tôi tiếc cho ông đã để cho “Người ta dùng ông nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị ngắn hạn, thiển cận, và độc ác... đã để những ngày cuối đời chọn sống ở quê hương bị đem ra làm công cụ” (T-Vấn).

Và đáng tiếc hơn, chính ông đã không biết giữ lấy cái “gia sản tinh thần” của ông, từng đi vào lòng hàng triệu người – hàng triệu người đó từng chung sống và chia sẻ những vinh quang cũng như bất hạnh với ông trong suốt 60 năm của đất trời tự do, từ ngày ông bỏ vùng kháng chiến về thành, rồi vào miền Nam và ra đến hải ngoại, cho tới ngày ông trở về quê hương, rồi quay lại nguyền rủa, phỉ báng hàng triệu người mà ông đã rúc mình trong cộng đồng của họ để ăn, để thở, để sáng tác, để hưởng lợi lộc. Đáng tiếc cho ông ở cái tuổi ngoài 80 mà ông còn chạy theo cái ảo tưởng để đánh mất cái đích thực của chữ “danh” chữ “lợi”.
Trả lời phái viên Mai Anh trên diễn đàn trang mạng Người Viễn Xứ, NS Phạm Duy nói rằng: “Có những người chống đối không muốn cho tôi về, vì họ sợ mất tôi”. Câu nói của người nhạc sĩ già PD gây cả ngạc nhiên, sửng sốt cho cô phái viên, khiến cô phải hỏi ngược lại: “mất là mất thế nào?”

Ông PD đáp lại: “Mất là không ở bên hàng ngũ của họ, nhưng họ nhầm rồi, tôi có theo hàng ngũ nào đâu”. Ông chê bai, mạ lỵ cộng đồng người Việt hải ngoại nào là: “Suốt 30 năm vẫn còn u mê như vậy”, và: “đó chỉ là sự nhỏ mọn trong tâm hồn họ” vân vân và... còn nhiều nữa...
Trong khi đó, trước khi về nước, ông đã đến gõ cửa các quan Toà Đại sứ CHXHCN Việt Nam ở Washington trình từng bản nhạc, xin ân huệ để được mang về theo. Vì bị gặp nhiều thủ tục gắt gao, ông than với cô phái viên phỏng vấn ông ở Việt Nam: 
- “Những bài thơ phổ nhạc thì phải xác minh tư cách của người làm thơ, có giấy minh định ông này không có chống Cộng từ xưa đến nay. Tôi đưa giấy cho Tòa đại sứ bên kia  chứng nhận là ông Nguyễn Tất Nhiên không chống Cộng.
Nhiêu khê lắm!”
Qua cô phái viên, NS/ PD đã nài nỉ:
- “Nếu nhà nước dễ dãi thì tạo điều kiện, vì những bài hát ấy đã quen hết cả rồi”.
Nhạc sĩ PD trích lời một nhà thơ bên Nhật: “Ông (PD) không phóng túng hình hài, không phóng túng cảm quan, không phóng túng tình dục... mà ông “phóng dật”. NS/ PD nói tiếp “Tôi sống hào hùng vì đuợc làm người...”

Một E-mail ký tên Liêu Tú, từ trong nước mới gửi ra hải ngoại những ngày cuối tháng 5 nêu lên hai ý:

Thứ nhất: Nhạc sĩ Phạm Duy nói, định về nước từ năm 1988, khi thấy ông Nguyễn Văn Linh có chính sách cởi mở, nước VN có chuyển biến tích cực... Người trong nước lại thấy rằng chủ trương Những Việc Cần Làm Ngay của ông Nguyễn Văn Linh hồi đó chỉ là một khẩu hiệu... suông. Người ta đã gọi ông là Nói Và Lờ (NVL). 

Thứ hai: Nhạc sĩ Phạm Duy từng thăm quê hương cả chục lần, vậy mà ông chỉ thấy những người có đời sống khá hẳn lên, làng quê đều khang trang, người đi cày có xe gắn máy Honda trên bờ ruộng...  Người trong nước nói: chỉ cần ra ngoại ô Saigon, đã thấy nhà cửa bà con tiêu điều, xiêu vẹo đến chừng nào; còn số người nông dân có xe gắn máy đó thì họ đã có từ khuya rồi, chẳng đợi tới thời “cởi mở, chuyển biến tích cực!...”

Người viết (E-mail) cho biết sẽ mời nhạc sĩ Phạm Duy tới quán cà phê của nhà thơ Phạm Thiên Thư, tác giả những bài thơ đạo mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc, ở số 9Y, đường Hồng Lĩnh, quận 10. Ngồi uống cà phê ở đó, hay ngồi ở bất cứ quán cà phê tầm tầm nào ở Saigon (và rất nhiều ở các tỉnh, thành trong cả nước), sẽ mỏi cổ vì lắc đầu không mua vé số. Già, trẻ, trai, gái, và cả thiếu niên, nhi đồng ở trong nước không bao giờ sợ thiếu việc làm. Bao nhiêu tỉnh thành đều có công ty xổ số, sản xuất vé số, bán mệt nghỉ.
E-mail kết luận: “bố già” trông còn phong độ vậy, mà tinh thần có chỗ hơi bị yếu”.

Đơn cử vài ba ý kiến của người trong nước, ngoài nước nói về NS/ PD để thấy hình như chẳng ai welcome ông ta cả. Còn cái chế độ mà tác giả bài viết “Trở về hay ra đi” cho rằng “cần được loại trừ càng sớm càng tốt” ấy, xem ra cũng chỉ dùng ông ta như một con rối cho mục tiêu chính trị nhất thời mà thôi. NS/ PD đã thiển cận chạy theo cái nhất thời đó để đánh mất nhân cách và cái giá trị vĩnh cửu của “tài sản tinh thần” của ông, trong khi ông lại tuyên bố với cô phóng viên: “Tôi sống hào hùng vì được làm người”. Nếu đất nước ta có lắm những con người “hào hùng” như ông thì Tổ Quốc Việt Nam ơi, buồn cho “gia tài của mẹ” biết chừng nào.

Vừa qua, “con người hào hùng” ấy quay lưng lại lên án người Việt hải ngoại, phỉ nhổ vào cái quá khứ của chính ông. Không biết ít lâu nữa ông có nói theo những người của chế độ, mà lên án người Việt lưu vong là “chống lại Tổ quốc” không.

Thưa Nhạc sĩ, Quê hương, Đất nước, Dân tộc, Tổ quốc “là của tất cả mọi người, không của riêng một chế độ nào, một nhóm người nào, dù đó là nhóm cầm quyền” (T-Vấn). Chế độ nào rồi cũng tàn lụi. Tần Thủy Hoàng bên Tàu, Napoléon bên châu Âu, Nhà Nguyễn của Việt Nam, đế quốc Cộng Sản, thành trì XHCN Liên xô, Đông Âu... tất cả đã đi vào bóng đêm  lịch sử. Sông núi, quê hương, con người của mỗi dân tộc vẫn mãi mãi tồn tại. Chẳng lẽ nhạc sĩ không biết cái danh lợi phù phiếm của năm ba năm còn lại cuối đời để đi ngược chiều lương tri, chạy theo cái bã.
Tôi không bao giờ đồng tình với luận điệu những ai cho rằng về thăm quê hương đất nước là tiếp tay làm lợi cho CS, là trở cờ, là phản bội lý tưởng, là vân vân. Tình tự quê hương, dân tộc, tình cảm máu thịt cha mẹ, anh em, họ hàng là những gì thiêng liêng, gắn bó. Những ai cản trở và ngăn chia tình tự đó là những kẻ chỉ còn trái tim và tâm hồn héo rũ.
Nhưng thưa Nhạc sĩ, giá như NS cứ  đi, về, ở, một cách an nhiên, quang minh chính đại, đừng nói năng láo lếu thì Nhạc Sĩ đã giữ được trọn vẹn lòng cảm mến của mọi nguời, trong nước cũng như ngoài nước.

Xin đây một vòng hoa thạch thảo tiễn người!

San Jose 6/2005

Monday, January 14, 2013

Lời Rao Giảng Của Thơ – Nguyễn Thùy (Kỳ 3)



Ra Đi - Hành Trang Chặng Đường Đến, Ở  
 

THƠ, 'Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi'. Thơ cứu rỗi con người. Không có thơ, Nguyễn Chí Thiện đã rữa xác trong tù; không có thơ, chàng sẽ không có một công trình sáng giá góp cho đời. Thơ đã cứu sống Nguyễn Chí Thiện; Thơ đãø làm 'địa ngục nở hoa' nơi chàng (nhan đề tập thơ 'Hoa địa ngục' của NCT). Thơ đã biến Nguyễn Chí Thiện thành nhân vật lịch sử một thời. Nguyễn Chí Thiện làm thơ không để trở thành thi sĩ. Thơ đến với anh, bắt anh phải 'đảm đương' một vai trò lịch sử  trong dòng lịch sử dân tộc, qua thơ. .
Một câu thôi 'Tiếng nói trăm năm vào đời  cứu rỗi', Song Nhị đã nói lên cái hoằng viễn, thâm sâu, u trầm, kín nhiệm, muôn đời của Thơ.  Song Nhị đã vào đời với thơ, vào quân ngũ, vào chiến trận với thơ.  Nơi anh, người dân, người lính, người thơ quyện vào nhau. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' không đi tìm vinh quang trong chiến thắng. Cái vinh quang của họ ở nơi trọn vẹn nghĩa vụ, ở nơi cái 'sứ mạng lịch sử ' của thời đại dù có phải vì bắt buộc mà dù có phải bị bắt buộc, họ cũng đã sống với thơ. Toàn bộ thơ anh không nói gì đến chiến thắng, chiến công, đến những hãnh diện, tự hào, oanh liệt ngày qua sau một 'thành công' nào đó đánh bại quân thù. 'Tiếng hờn chiến mã' là tiếng hờn vì nghĩa vụ không tròn, vì tình yêu không trọn vẹn để phải đau thương cho dân, cho nước, cho nhà. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' đi vào chiến trận với hình ảnh 'người dân nơi người lính' chứ không phải 'người lính nơi người dân' hay chỉ là người lính đơn thuằn. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' chiến đấu để bảo vệ người dân qua người lính. Điều nầy thường không mấy ai để ý và khó rõ ràng nói ra. Đi vào thơ, không phải để trở thành thi sĩ; đi vào chiến đấu không phải để tìm vinh quang. Mộng trở thành thi sĩ sẽ giết chết thơ; mộng tìm vinh quang sẽ giết chết ý nghĩa chiến đấu, hay sẽ khiến chiến thắng không còn vinh quang mà là cuồng bạo. Nhà khoa học ra công tìm tòi, nghiên cứu không để mong trở thành nhà thông thái; nhà triết học mong tìm một hướng đi, một giải quyết nhân sinh không phải để được là triết gia. Người làm thơ cũng thế; người chiến sĩ cũng thế. Người hiệp sĩ trở thành hiệp sĩ vì đã cứu người chứ không phải muốn được là hiệp sĩ nên mới cứu người. “Bảo vệ người dân qua người lín”, ý nghĩa chiến đấu nằm ở đấy. Và, có thể phần nào đấy là cái 'triết lý' ẩn tàng nơi thơ Song Nhị dù anh chẳng bao giờ triết lý:                                     
Xin từng đốt ngón tay mỏi mòn lời hứa hẹn                                       
Xin ngày tháng dài ao ước đơn sơ                                       
Xin một lần gõ cửa gọi tên người còn đáp lại                                       
Xin cho quay về nhận diện ấu thơ                                                                              
Xin bồng súng chào mừng đồng loại                                       
Nhận huấn lệnh đi vào cuộc đời                                       
Sự khởi đầu bằng vết hằn ký ức                                       
Và gió mưa luân vũ quay cuồng                                       
Những đứa bạn nằm yên dỗ giấc                                       
Cũng thôi                                       
Hạnh phúc vẹn toàn                                      
.............                                      
Xin bài kinh cầu trổi thành nhạc khúc                                      
Một phút an ủi vỗ về                                      
Một phút bình yên trên vùng ảo tưởng                                      
Ôm tròn hoài niệm quay đi                                      
Sự có mặt của những ngày dẫy đầy triệu chứng.                                                               
     (Tình ca nhập cuộc – VLĐX)
“Nhận diện ấu thơ” trong sự “có mặt dẫy đầy triệu chứng”, giữa “luân vũ quay cuồng”, giữa “vòm trời ảo tưởng”. “Nhận huấn lệnh đi vào cuộc đời”, huấn lệnh nơi đây không hẳn là 'mệnh lệnh' của cấp chỉ huy hay của Đảng và Nhà Nước, nếu nói về phía những người bên kia. 'Huấn lệnh đi vào cuộc đời' là sự 'bắt buộc phải 'ra đi' do “thiết yếu của cõi đời nhân gian”, do 'điều biết tự trời'; huấn lệnh đó là cái nghĩa vụ phải gánh vác do đòi hỏi của thiết yếu lịch sử. Làm tròn nghĩa vụ đó là vinh; không làm tròn được không là nhục. Cái 'nhục' ở nơi tránh né cái nghĩa vụ đó hay đưa cái nghĩa vụ đó đi sai đường lịch sử. Hân hoan nhận cái nghĩa vụ lịch sử đó (bồng súng chào mừng đồng loại) đi vào cuộc đời. “Chào mừng đồng loại”: chào mừng thân nhân, bạn bè, chiến hữu, chào mừng mái ấm gia đình thân thương, có thể chào mừng cả nhân loại trong việc 'ra đi' do sứ mạng lịch sử đó, do từ 'vết hằn ký ức'. Ký ức nào? Gần gũi là ký ức Quê hương, Tổ quốc; cao rộng, thâm sâu hơn, đấy là ký ức về Cội nguồn mà Song Nhị đã nói. Victor Hugo cũng đã nói trước đây:                                  
Mọi điều đã được nói.
Điều xấu cáo chung; lệ buồn chấm dứt; không còn xiềng xích tù gông, không còn tang ma, không còn báo động. Hố thẳm khắt khe không còn câm nín, (mà) bập bẹ lên lời: tôi nghe gì?                                   
Đau khổ nhân sinh tan đi trong mọi vùng bóng tối; Thiên sứ từ cao lớn tiếng gọi mời : Nguồn cội! (5)
      “Xin cho quay về nhận diện ấu thơ”; nhận diện là nhìn ra, thấy lại, sống lại. Tuổi ấu thơ con người cùng cái Cội nguồn nguyên khởi bao giờ cũng bình                      dị, đơn sơ, thuần nhiên, thánh khiết, vô ưu. 'Xin được như vậy'(Ainsi soit-il, bốn câu thơ đầu trích trên). Và những người nằm xuống? Họ còn mãi ôm 'hằn ký ức', 'ôm tròn hoài niệm'; họ đã không may mắn nhìn lại được 'tuổi ấu thơ' của Quê hương, Dân tộc, của chính mình, của Cội Nguồn nguyên thể thì xin “bài kinh cầu” (requiem) đừng cần thiết gọi hồn họ siêu thăng mà hãy trở thành tiếng nhạc, lời thơ vỗ về họ một phút bình yên giúp họ được 'quay đi', không còn phải đối diện với 'sự có mặt của những ngày dẫy đầy triệu chứng' đang còn phải diễn ra.
Song Nhị 'ra đi', - 'đi vào chiến đấu' - với ý tình như thế. “Xin tiếng nói đây em, Một lần từ biệt, Xin tiễn đưa bằng nỗi nhớ xa xôi, Xin con tàu vào viễn lộ hoàng hôn, Sương mù biển lặng, Gom hết đau thương đốt lửa giữa trời” (Tình ca nhập cuộc). Bài thơ được viết năm 1969 giữa lúc súng giặc vang rền khắp nẻo quê hương. Ba mươi ba năm sau (năm 2002) nơi xứ Mỹ, ý tình đó vẫn theo anh:                                       
Sông với núi và trăng sao cây cỏ                                       
Em và tôi và tất cả muôn loài                                       
Đã hiện hữu trước ý đồ tạo hóa                                        
Đã căn phần tự thuở mới phôi thai                                       
Tôi đã đến, đã đi và sẽ tới                                        
Cuộc trăm năm đoái tưởng chữ vuông tròn                                       
Khi nhân ảnh khuất sau vừng nhật nguyệt                                        
Xin gửi người còn lại khoảnh lòng son                                                           
    (Lời Mặc Khải Của Tiền Thân)
Hiện hữu không do từ ý muốn của riêng ai mà do 'ý đồ tạo hóa', do từ 'căn phần tự thuở mới phôi thai'. Đi vào cuộc đời là đi vào 'viễn lộ của hoàng hôn', nói theo Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều:                                     
Cái quay búng sẵn lên trời                                       
Lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm                                                            
    (Cung oán ngâm khúc)
thì phải lần mò bước đi trong đêm tối bủa vây. Cái quay phải quay, không được từ chối ngưng quay. Nhưng không phải vì thế mà không chịu nhìn ra hướng mình quay và điều chỉnh dòng quay thế nào cho thuận theo ý mình, thuận theo cái lý vận hành của Tạo hóa. Thuận Nghiệp chính là để 'Cải Nghiệp'. Cải nghiệp bằng: “Gom hết yêu thương đốt lửa giữa trời”. 'Đốt lên, đốt cho bừng sáng giữa trời bao la chất lửa yêu thương' để mai kia vĩnh viễn ra đi giã từ cõi thế, “khi nhân ảnh khuất sau vừng nhật nguyệt”  (parting is all we need of hell) được “gửi người còn lại khoảnh lòng son”. “Khoảnh lòng son”, vâng, chỉ thế, đơn sơ chỉ thế nhưng khó khăn thay và mấy ai chịu nghĩ, chịu làm. 'Lưu thử đan tâm chiếu hãn thanh'  (lưu lại tấm lòng son cùng sử sách – Nguyễn Công Trứ : Chí làm trai).
Giản dị quá đi thôi! Nhưng giữa cảnh 'chợ trời' nham nhở tranh đoạt lợi danh, quyền uy, chức vị, nào mấy ai đủ nghĩa khí, can trường thực hiện, ngoài một số ít người luôn nuôi dưỡng nơi mình 'khí hạo nhiên chí đại chí cương' (Nguyễn Công Trứ: Kẻ sĩ) và ngoài nhà thơ, những nhà thơ thực sự là nhà thơ, những nhà thơ đi vào cuộc đời với cả tâm hồn người dân chất phác, người chiến sĩ kiên cường và người nghệ sĩ lãng mạn, bát ngát yêu thương trang trải tình người thanh tân, thánh khiết đem 'Thơ vào đời trăm năm cứu rỗi' . Đấy  là sứ  mạng của Thơ,  của nhà thơ, những nhà thơ lớn của thời đại nguy nan (poètes en temps de détresse - M. Heidegger), những nhà thơ lớn vào thời tận cùng của một giai đoạn lịch sử bi thương của thế giới (lời Holderlin, trích trên). 
Lời thơ có sức mạnh thuyết phục, nâng cao ý chí, khí lực con người, gieo tin tưởng vào cõi lòng đang sầu héo trong mọi bất hạnh đang diễn ra cho mình, cho nước, cho dân. "Tôi đã đến, đã đi và sẽ tới", lời thơ tuôn chảy, không chút vấp váp nào như một xác quyết, khẳng định với mình, với người. Cuộc sống là một hành trình "Ra đi, Đến ở, Trở về"  lúc bế tắc, lúc hanh thông nhưng bao giờ cũng dẫn đến thời điểm 'tới nơi" với những ai bền tâm, tráng chí kiên trì trong chí hướng làm đẹp người, đẹp đời, đẹp đạo,...
Bao nhiêu bài nữa nhưng xin dừng. Bàng bạc trong thơ Song Nhị những ý tình xa xôi, hoằng viễn đó, những ý tình triết lý về ý nghĩa làm người, ý nghĩa cuộc sống, có thể do xuất thần cảm ứng mà anh không biết, không ngờ. Nhưng dù do xuất thần thì cũng đã do từ lâu rồi tiềm tàng nội tại trong tâm tư phát sinh từ bản chất nghệ sĩ vừa hạo nhiên vừa lãng mạn. Xin sống với cái tâm hồn 'chiến sĩ - nghệ sĩ' nơi anh để nhận ra phần nào kín nhiệm nơi thơ anh.  
Với tâm hồn đó, Song Nhị đã đi vào chiến trận với hình ảnh 'người dân nơi người lính'. Điều nầy, người lính Mỹ đồng minh không thể nào hiểu được (6). Cả những lính Việt Nam bên kia chiến tuyến. Họ - những người Cộng sản - đi tìm vinh quang không cho người dân, có thể không cả cho người lính mà chỉ cho họ, cho tập đoàn Cộng sản, cho chủ nghĩa, cho cái 'ý thức hệ' riêng tây của họ. Họ đã biến người dân thành người lính, họ bảo vệ người lính hơn người dân. Họ đã xua hàng trăm, hàng ngàn người dân đi trước lính trong những cuộc tấn công. Chiến thuật 'biển người' đã giết hàng loạt nguời lính và người dân. Họ - người Cộng sản - biến người lính không còn là người dân để họ tìm vinh quang trong chiến thắng và để người lính được nhận phần thưởng 'liệt sĩ, anh hùng' (!). Họ biến người lính thành từng cầu thủ bóng tròn, thành từng võ sĩ  quyền anh, những 'sát thủ' hay những 'giác đấu' phải thắng mọi đối thủ để được Đảng tặng thưởng tiếng 'anh hùng' đem vinh quang (!) về cho Đảng (7). Tất cả đều thuộc về Đảng và Nhà nước, nằm trong vòng tay, khuôn khổ của Đảng và Nhà nước, cả đất nước, tôn giáo, pháp lý và lịch sử cũng thế. Xin không dông dài để khỏi bị gán ghép là 'tố Cộng'. Quang Dũng, một chiến sĩ nghệ sĩ thời chống Pháp đã không theo văn nghệ của Đảng nên bị đánh giá là 'lãng mạn tư sản' nên bị thất sủng. Và bao người như thế cho mãi đến nay, không cần kể nói nơi đây. Người lính không mang theo hình ảnh người dân nơi mình, không 'bảo vệ người dân nơi người lính' thì chỉ là người lính đánh thuê, người lính của lực lượng xâm lăng hay công cụ trong tay kẻ độc tài. bá đạo.
Song Nhị không đề cập đến điều nầy nhưng qua thơ anh, ta mơ màng nhận ra tính cách chiến đấu theo tinh thần 'hiệp sĩ  hùng anh' nơi người lính, nơi người 'chiến sĩ' đúng nghĩa là 'chiến sĩ '.     
Do bản chất 'người dân, người lính, người nghệ sĩ', quyện vào nhau, thơ Song Nhị kết hợp cả hai tính chất cổ kính của thơ xưa với tính lãng mạn của thơ nay. Trong “Tiếng hờn chiến mã”, lời thơ phảng phất không khí Đường thi qua các bài Thất ngôn, ngũ ngôn tứ tuyệt hay những bài ít nhiều theo lối cổ phong. Ta đọc ra cái phong thái hạo nhiên, cái khí tiết kiên cường của kẻ sĩ phu yêu nước trước đây, cái dũng của con người hào kiệt, nguy nan, gian hiểm dạ chí không sờn. Có buồn đau vì nghĩa vụ không tròn, vì lâm vào thế phải 'gãy kiếm cung' thì cũng là cái buồn đau, than thở, ngậm ngùi chung do thời không xuôi, thế không thuận chứ không rũ liệt, nát tan, nhục nhã để phải tự mình đánh mất khí tiết hùng anh. Qua thơ Song Nhị, ta như sống cái không khí 'Kẻ sĩ' của một Nguyễn Công Trứ ngày nào.
Những bài làm theo thể thơ mới, tự do và nhất là Lục bát, phần lớn nơi 'Về lối đi xưa' chan chứa tình cảm ngọt mát tính chất trữ tình, tha thiết, mặn nồng, cảm động. Lời thơ như tuôn chảy, dàn trải, mở phơi tình tự. Hình ảnh trong thơ không nơi từ ngữ mà nơi văn ảnh tức hình ảnh của toàn bài chứ không chú trọng nơi một ẩn dụ, một biện pháp tu từ nào. Bài “Sáng lại lòng con” là một điển hình. Mượn một hình ảnh hiện thực “Cặp kính viễn mẹ cha cho con”  chuyển thành văn ảnh mang tính chất ẩn dụ vừa nói lên tình cha nghĩa mẹ đậm đà, cùng công khó và ý tình mẹ cha vừa mang chứa ít nhiều tính chất triết lý. 'Cặp kiếng' mẹ cha trao cho không chỉ để giúp con nhìn đọc tỏ tường mà trở thành 'cặp kiếng của lương tâm', của 'trí tuệ', của 'tấm lòng' nhìn rõ mình, rõ người, rõ nhân tâm, thế sự, rõ tình đời, vận nước; cặp mắt già vì số tuổi, vì buồn đau, vì truân chuyên, nhục nhằn, khổ nạn, cặp mắt đã mờ, cặp mắt sáng lại:                                    
Con đã thấy đã nghe đã hiểu rồi                                       
Thưa mẹ                                       
những gì rất đáng yêu                                       
những gì rất ghê sợ                                       
con đã đến đã đắm mình trong đó                                        
tha thiết trong yêu thương                                                     
dạn dày trong đau khổ                                       
sôi sục trong hờn căm                                       
con lớn lên theo năm tháng nhục nhằn                                       
mắt con đã mờ                                       
mắt con sáng lại.                                                      
    (Sáng Lại Lòng Con – THCM) 
Tính chất trữ tình nơi đây, phần nào do tính cách hạo nhiên của kẻ sĩ, đã vượt lên trên 'mặt bằng tình cảm' thường ngày, hướng đến một thứ tình yêu lung linh, diệu vợi, thiêng liêng nào khác:                                   
Tôi trải lòng mình                                                              
tiếng yêu thương mời gọi                                                     
xin mặt trời soi                                    
vườn tỉnh ngộ nở hoa                                                                          
   (Thông điệp từ địa chỉ New York 9/11 Gởi loài người)

Thơ Song Nhị là loại thơ chiến đấu, không phải cổ vũ đấu tranh vì hận thù mà chiến đấu cho một lẽ sống không còn gian trá, giả hình, một cảnh sống trong tình thương, trong Lẽ Thật, trong cái "ĐẸP" của tình người đôn hậu, thuần nhiên, chiến đấu cho một cảnh đời ngọt ngào ân ái, luôn luôn an bình, hạnh phúc, đâu đâu cũng là Đất Trời Quê Hương luôn mùa Xuân hoa nở. Cái "lãng mạn" nơi thơ anh không là cái "lãng mạn    sản", cái  lãng  mạn  của "tình tự mặt bằng" mà là thứ "lãng mạn chiến đấu”, thứ lãng mạn hào hùng của người  chiến sĩ nghệ sĩ đấu tranh cho nhân đạo, nhân quyền.
Ngoài một số bài ngậm ngùi về  cảnh phải 'ngã ngựa' và một số bài nói về cảnh 'đổi đời tê tái' của Cộng sản phủ trùm lên đất nước, nhân dân, nhìn chung, thơ Song Nhị luôn luôn nói đến 'tình người', không chỉ giới hạn nơi những mối tình thiết tha cao quý ai cũng hằng mong trong cuộc sống hằng ngày (yêu mẹ cha, chồng vợ, con cái, bạn bè, yêu Tổ quốc, nhân dân,...) mà còn hướng đến một tình yêu thăng hoa con người cùng cuộc sống, cuộc đời để cả mặt đất bình yên, cả nhân loại không còn trong bóng tối quỷ ma. Xin mượn lời thơ của Victor Hugo trong bài “Bên bờ vô hạn” (au bord de l'infini) để kết thúc bài viết nầy và cũng để phần nào nói lên cái 'Tình Yêu' thánh thiện, thiêng liêng mà Song Nhị ước mong được thấy dựng xây cho tất cả mọi người nơi cõi thế, thứ tình yêu Song Nhị đã đem theo mình trong chiến đấu, trong ngục tù cải tạo, trong thân phận lưu dân nơi xứ người qua suốt cuộc hành trình 'Ra đi, Đến ở, Trở về' biểu hiện qua Thơ “Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi”:
Giờ đã đến. Hy vọng lên.
Thắp sáng lại linh hồn lịm tắt                                 
Thương yêu nhau! Thương yêu nhau!
Vì là lửa ấm thiêng liêng                                              
Lửa của ngày thực sự bình yên,                                  
Vũ trụ mịt mờ, giá buốt, ăm ắp đảo điên                                  
Đang hỏi đòi nhân thế thăng hoa bởi
ngọn lửa thiêng                                            
Và con người bởi tình yêu vô hạn. (8)
                                                                                                                              
NGUYỄN THÙY                                                                             
Grenoble (France) 15/11/2002

---------------
Chú thích:
1) Hai câu thơ, tôi không nhớ được chép lại nơi sách nào (có thể từ một sách của Bùi Giáng). Ngày ở Pulau Bidong (1989), tôi có đọc một 'Tuyển tập thơ tiếng Anh'. Không biết tiếng Anh, tôi chỉ 'nhìn' qua số vốn liếng tiếng Pháp ít oi và nhờ vào Tự Điển. Từ 'Parting' có thể dịch là 'chia ly, biệt ly, từ ly, vĩnh ly'; tôi dịch theo tiếng thuần Việt là 'Ra đi'. 'Hell' có nghĩa là 'địa ngục', có thể dịch là "cõi âm", "âm cảnh" hoặc "đời nhà ma". Nhưng đã vào địa ngục thì không còn 'ra đi' nữa; do đó từ 'hell' nơi đây chỉ cõi sống trần gian dẫy đầy tội lỗi khổ đau, nên tôi dịch là 'đời nhân gian' phỏng theo lời thơ Nguyễn Du trong truyện Kiều: "Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian".. Lời thơ Emily Dickinson đã gợi ý tôi làm đôi bài thơ, xin trích đôi đoạn:
a) Hỡi Thượng Đế, u sầu chi quá đổi  
Chẻ chia mình để giải tỏa cô đơn    
Tự chứng quả giữa dòng đời trôi nổi    
Đi tìm yêu trong đáy thẳm tình buồn…..

Người tìm lại dung nhan Người buổi đó
Trải u sầu đen tím gót nhân gian
Bước dịch chuyển theo trang đời lổ đổ
Để dời đô lên ngự đỉnh Thiên đàng. 
           
b) Em giả từ nguyên sơ
Vào nằm dòng sử máu
Gieo linh hồn nghiệp báo
Sầøu nhân quả bơ vơ….. 
2) L' heure la plus sombre est juste avant l'aurore – Arnaud Desjardins : 'Regards sages sur un monde fou', édt. La Table Ronde, No 2938, Paris 1997, trang 280, câu cuối cùng của sách
3) 'Tổ quốc, Kiều địa, Cố hương' (Patrie, Colonie, Sol natal). Xin không đi vào Đạo học vì quá dông dài và khó hiểu. Xin nói về người Việt hải ngoại hiện nay. Chúng ta đã phải rời Tổ Quốc (Quê Hương, Đất nước) ra đi, 'đến ở' nơi miền Kiều địa (đất khách, quê người), luôn luôn khao khát và quyết tâm 'trở về' với 'Cố hương' (cố quận) để làm đẹp Tổ Quốc, Quê Hương với bao hành trang tích lũy qua chuổi ngày phiêu lưu nơi đất khách. Về mặt Đạo học (Ontologie, Philosophie de l' Eâtre), Tổ Quốc chính là Cội Nguồn phát sinh vũ trụ hiện tượng, Kiều địa là cõi sống thế gian (cõi Diệu hữu theo Phật giáo) với vô vàn hiện thể vật và người luôn luôn biến đổi vô thường; Cố hương hay Cố quận là sự quy hồi, hồi phục của Tổ Quốc, Cội Nguồn trong một trạng thái tròn đầy, viên mãn, tốt đẹp hơn thưở ban đầu.  Phần nào lời thơ Emily Dickinson và tấm 'gương cũ' trong lời thơ Bà Huyện Thanh Quan (nghìn năm gương cũ soi kim cổ) mang ý nghĩa đó. Thơ Song Nhị tiềm tàng ý nghĩa cao rộng nầy. 
4) En général, les poètes se sont formés au début ou à la fin d'un âge du monde. C'est avec les chants que les peuples descendent du ciel de leur enfance pour entrer dans la vie active, au pays de la culture. C'est avec des chants qu'ils s'en retournent à la vie originelle. L'art constitue la transition de la nature à la culture, et de la culture à la nature – Holderlin – Trích dẫn bỡi M.Heidegger trong tác phẫm 'Holderlin Hymnen', bản dịch Pháp ngữ "Les Hymnes de Holderlin" của Francois Fedier và Julien Hervier, nrf, Gall. Paris 1988, trang 33. (Từ 'nature' nơi đây, xin không hiểu là 'thiên nhiên' mà là 'bản thể của tự nhiên' (le naturel de la nature).                            
5) Đoạn cuối bài trường thiên 'Au bord de l'infini' (Bên bờ vô hạn) của Victor Hugo:
Tout sera dit. Le mal expirera; les larmes
Tariront; plus de fers, plus de deuils, plus d'alarmes;
L'affreux gouffre inclément
Cessera d'être sourd, et bégaiera: Qu' entends-je?  
Les douleurs finiront dans toute l' ombre; un ange
Criera: Commencement!
('Commencement' không nên hiểu là 'bắt đầu' hay 'khởi đầu' (début) mà là 'Khởi nguyên' hay 'Cội Nguồn'. Sự khác biệt giữa 'khởi đầu' và 'khởi nguyên', xin không nói nơi đây vì sẽ dông dài).
6) Một số phim Mỹ cho ta thấy người lính Mỹ hầu như chỉ được huấn luyện trở thành 'đấu thủ' để quật ngã hết mọi đối thủ như trong phim Rambo với tài tử  Sylvester Stalone. Một số phim Mỹ khác chỉ chiếu cảnh chiến đấu của lính Mỹ với đối thủ của họ là Việt Cộng mà không đề cập gì đến những chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Người lính Mỹ cùng cấp tướng tá và ngay cả các viên chức Chính quyền Mỹ ở Nhà Trắng, ở Ngũ Giác Đài không bao giờ nhìn ra cái khó chịu của người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bắt buộc phải tuân theo những kế hoạch hành quân, những kỹ thuật chiến đấu nhà nghề theo lối 'đấu thủ', 'giác đấu' của họ. Người lính Việt Nam Cộng Hòa cũng kiên cường, gan dạ, bất khuất, hiên ngang nhưng không trong tính cách 'đấu thủ' và 'đối thủ' trong 'đọ sức' để tìm vinh quang cho cá nhân. Họ - người Mỹ - không bao giờ nhìn ra cái tính cách 'người dân nơi người lính' của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (dĩ nhiên, tôi không nói đến những hạng 'lính kiểng', những cấp tướng tá di sản của Quân đội Pháp cùng những thứ tướng tá do hối lộ hay cách nào khác để được lên lon đều đều).
7) Như  những 'Nguyễn Văn Trổi, Nguyễn Văn Bé' và bao bao nữa qua sách báo Cộng sản.
8) Đoạn thơ cũng trong trường thiên 'Bên bỡ vô hạn' của Victor Hugo:                               
L' heure approche. Espérez. Rallumez l' âme éteinte!                    
Aimez-vous! Aimez-vous! Car c' est la chaleur sainte,
C'est le feu du vrai jour,            
Le sombre univers, froid, glacé, pesant, réclame    
La sublimation de l'être par la flamme,
 De l'homme par l'amour!
(Victor Hugo: Les Contemplations; nrf Poésie/ Gallimard, Paris  2002, trang 407)

 


Lời Rao Giảng Của Thơ – Nguyễn Thùy (Kỳ 2)



Ra Đi - Hành Trang Chặng Đường Đến, Ở  
 

Bây giờ, 'trốn chạy hòa bình', anh lại phải 'ra đi', tự bắt buộc mình 'ra đi', không để trở thành 'cái giá phải trả' trong tay phường 'chiến thắng' (?) mà với tâm nguyện tạo lập một 'hòa bình' đúng nghĩa thay cho thứ 'hòa bình' man trá, giả hình của kẻ thù tàn bạo, vô luân.
“Chạy trốn hòa bình” để 'Tiếng hờn chiến mã' có điều kiện mở phơi, vạch trần giai đoạn sử máu và thêm nung nấu can trường. 'Đến, Ở' xứ người, bơ vơ, lạc lõng như để 'nhận phần trả vay'nơi kẻ đã 'gieo mầm nhân quả'. Có thể Song Nhị không nghĩ như vậy mà hầu như do một 'căn duyên nào buộc', một 'cần thiết nơi đời cõi âm', một tất yếu của kiếp người 'từ nguyên là bụi cát, ghé bến rồi ra đi':                                     
Ta từ cõi lạ                                        
một lần đến đây                                        
gieo mầm nhân quả                                         
nhận phần trả vay

Ta từ cõi lạ                                       
một lần đến đây                                         
căn duyên nào buộc                                       
nhân sinh kiếp nầy                                                 
    (Chặng Dừng)
Chặng đường 'đến, ở' trong thân phận ly hương xay xát đêm ngày tấm thân lữ thứ. Chiến mã ngày nào 'lẫy lừng bao chiến trận, dọc ngang hề! tứ phương' giờ nầy co rút lại giữa cảnh đất trời xa lạ, giữa cách sống, cách nhìn chẳng chút đồng điệu, đồng tâm. Một cách biệt, khác xa: ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, thói quen, cả thân xác, hình hài,… một hoài nghi lạnh giá, 'hoài nghi hiện sinh, hoài nghi lý lịch' (doute existentiel, doute identitaire) xâm chiếm cõi lòng để hầu như thấy 'tuồng đời hư ảo, phận mình  hư không':                                      
Ngày qua theo bóng                                      
đời xuôi theo dòng                                       
bóng đời chập choạng                                       
phận người rêu rong                                     
Ta từ cõi lạ                                       
một lần đến đây                                       
ôâm toàn hư ảnh                                       
thả vào khói mây                                                 
    (chặng dừng)
Ai không ngậm ngùi trong cảnh tha hương? Ai không héo hắt trong hoài thương, tưởng nhớ? Chặng đường 'đến, ở' ngun ngút buồn đau; tương lai hun hút dặm ngàn, mờ mịt, lạnh căm:                                     
Xuân này có người viễn xứ                                        
hăm lăm năm biệt quê nhà                                  
lang thang chân trời góc biển                                       
ngậm ngùi đất tổ quê cha
.......                                                                             
bốn phương không là quán trọ                                       
ơi người viễn xứ về đâu?                                                                        
     (Người viễn xứ)           
Thời gian lạnh lùng trôi, không đoái hoài thân phận kẻ ly hương 'trên lưng dày quá khứ, từng vết hằn bầm đen' (Chặng Hai Ngàn Thời Chim Di Việt Nam), đã sang thiên kỷ mới mà những đợi chờ lịch sử đổi thay vẫn là một chuyện buồn, vẫn chưa một dấu vết vơi tan:                                    
Một phần tư thế kỷ                                       
hoàng kim như bóng mây                                       
chặng hai nghìn đến hẹn                                      
chuyện buồn còn trao tay                                                    
   (chặng hai ngàn...)

Và, bẽ bàng sao! Bao nhiêu đồng bạn cùng đoàn chiến mã bao thuở hiên ngang, bao thời oanh liệt và trong bao năm tháng ngày dài trong lao lung khổ nhục vẫn kiên cường bất khuất, thế mà, giờ đây.... Và, bao kẻ khác, không trong đoàn chiến mã, nhưng cũng đã phải bao đọa đày khổ nhục, đã phải liều chết ra đi, thế mà, giờ đây...
Một ngày tôi ra ngõ
phố xá người xôn xao
cờ giăng và biểu ngữ
chính nghĩa mình giương cao

Một ngày tôi cúi mặt
giọt nước mắt rơi mau
giữa lằn ranh thù hận
phất cờ vàng chọi nhau

Một ngày tôi ngồi hát
cảm nghĩa tình dạt dào
lời trao nhau giòn dã
đồng hương tố đồng bào

Một ngày tôi câm lặng
cuộc “tranh luận” dài dài
mở toang các làn sóng
âm thanh thật vui tai

Một ngày tôi thức dậy
thấy đàn ông đàn bà
ném tiền vào thầy cãi
vác chiếu ra hầu tòa
(Chuyện Mỗi Ngày Của Tôi)       
Giữa cảnh 'chợ trời chính trị' hổ lốn, bon chen, tranh giành nhau chút quyền, chút lợi, chút danh nham nhở, rẻ tiền; trước bao thủ đoạn nham hiểm, gian ngoan của kẻ thù cố tạo nên cảnh 'chợ trời bung xung' nhốn nháo đó, Song Nhị như thấy mình chỉ còn biết 'co lại trong xác con ve sầu', đành câm nín, im lìm ngày ngày 'lái xe vào hãng Mỹ, an phận làm cu li’ để 'một ngày tôi lội bộ, ra bờ Thái Bình Dương, đọc lời kinh sám hối, tạ tội cùng quê hương' (Chuyện Mỗi Ngày Của Tôi).
Việc làm đẹp nhưng chỉ để tự thân an ủi mình. 'Tiếng hờn chiến mã' không bằng lòng thái độ tiêu cực. 'Tiếng hờn chiến mã' buộc anh cũng như bao người như anh phải chiến đấu, chiến đấùu cho một ngày về, chiến đấu cho một lẽ sống hiền hòa, cao quí, cho một mùa Xuân của đất nước thực sự đẹp tươi, 'cả dân tộc sẽ bừng lên sức sống, xóa hết nhục nhằn xây dựng một ngày mai'! (Phải Nói Lại Những Điều Đã Nói – VLĐX):                                      
đoạn cuối hành trình đêm đen sẽ hết                                        
ở đó sẽ là một mùa xuân                                       
những mùa xuân                                       
ta sẽ trang trọng cắm những bông hoa                                       
cho em                                        
cho cả cuộc đời...                                              
(Từ Giữa Ngục Tù – THCM)

'RA ĐI LÀ ĐỂ TRỞ VỀ'
'Trở về' cũng 'cần thiết cho đời nhân gian'. Bước 'Ra đi' nào cũng mặc nhiên hứa hẹn bước 'Trở về'. 'Trở về' để phục thù bao oan khiên đã phải từng gánh chịu hay để tu bổ mái nhà khang trang, ấm cúng hơn xưa, hay để xây dựng trang sử mới chung vui hoặc chỉ để sống lại những kỷ niệm một thời. Thượng Đế đã phải ra đi để lại trở về; Đạo thể chân như từ 'Vô Dư Niết Bàn', đã phải 'ra đi' đắm mình vào Diệu hữu (cõi tục đế) để được trở về trong Hữu Dư  Niết Bàn lộng lẫy hơn xưa. Con người cũng phải 'ra đi' vì điều đó tự trời, và thiết yếu cho vận hành nhân sinh nơi cõi thế (xin xem đôi bài thơ nơi phần chú thích).
Sử mệnh Việt Nam đã hối hả xua hàng triệu con dân đất nước 'ra đi' vào lạnh lùng, hiu hắt để chuẩn bị cho một 'trở về' đẹp đẽ nay mai. (Xin không dài dòng điều nầy để khỏi rơi vào Đạo học và Chính trị).                       
Từ nơi 'đến ở', Song Nhị cũng như bao người luôn nuôi dưỡng một 'Trở về'. Anh đã từng 'trở về' không từ nơi đất Mỹ mà từ nơi trại tù cải tạo của Cộng sản.  Sau bao tháng ngày bầm giập tái tê, nhục nhã, anh đã 'trở về' lại với làng xưa, phố cũ, trở về lại 'những lối đi xưa'. Những 'lối đi xưa' nay không còn sắc màu diễm ảo, mộng mơ, xinh đẹp mà tiêu điều, hiu hắt do một 'đổi đời' kỳ quặc, do “trang sử lật rồi cuộc biển dâu” :                                      
Về đây đời bỗng ngu ngơ lạ                                        
Quanh quất như chừng lạc lối xưa                                        
Phố mất tên, đường, nhà đổi chủ                                        
Người nhìn nhau thoáng mắt thờ ơ              
Về đây. Về lại từ luân lạc                                        
Chưa trả dứt xong nợ quỷ thần                                        
Cảnh cũ người xưa chừ tản mác                                        
Thấy người mà buốt cả tâm thân….                                                   
    (Về đây – VLĐX)         
Song Nhị đã về lại quê nhà Hà Tĩnh vào năm 1988 (sau 32 năm kể từ khi cả gia đình vượt thoát qua Lào, nạn nhân của cuộc “cải cách ruộng đất”, đấu tố hung tàn, man rợ 1956), nhìn cảnh cũ người xưa mà lòng chao đảo, ngỡ ngàng:                                      
Tôi về Hà Tĩnh chiều nao                                        
Dưới chân Hồng Lĩnh máu đào chưa khô                                        
Quê người (ở Lào, ở Mỹ) tôi nhớ Nguyễn Du                                        
Quê tôi tôi đứng giữa mù mịt xa                                                       
    (Ba mươi hai năm về lại quê nhà – VLĐX)
.......
tôi về còn thấy gì nào
những cặp mắt lạ liếc chào: lạ thêm
tôi về ngày tưởng là đêm
từng cơn ác mộng bập bềnh thuở xưa
Tôi về “kẻ đón người đưa”
Bước lên tàu chạy tưởng vừa thoát thân.
      
Và cũng một lần 'trở về' quê Nghệ Tĩnh cùng Hà Nội, Song Nhị ngậm ngùi ra sao:                                      
Ngày trở về thăm quê Nghệ Tĩnh                                       
Đất cằn sỏi đá ruộng đồng khan                                        
Con trâu đứng đợi hờ rơm cỏ                                       
Em bé ngồi trông miếng khẩu phần                                     
.........
                                      
Và buổi đi tàu ra phía bắc                                       
Tìm về văn hiến bốn nghìn năm                                      
Thương ôi, Hà Nội tiêu điều quá                                      
Năm cửa ô buồn ngõ tối tăm                                                         
    (Nước non thuở ấy – VLĐX)
rồi trĩu nặng u hoài như Bà Huyện thuở nào “nước còn cau mặt với tang thương” để “nghìn năm gương cũ soi kim cổ” ; nhìn 'lăng Bác', nhìn tượng Lê Nin,... nhìn những anh công an khu phố sẵn sàng tri hô 'phản động' nhưng cũng vui vẻ tử tế nhận chút tiền hối lộ để 'phản động' được vào Tòa Đại sứ Úc có việc cần. “Lối đi xưa” bây giờ là thế đó, làm sao không quằn quại đau lòng cảm thấy “đồng hương mà vẫn đứng ở hai miền, đồng hương mà phải cùng nói chung ngôn ngữ khác”. Từ nơi xứ Mỹ, Song Nhị đã chứng kiến bao “trở về” của bao người để càng thêm tủi cực, ê chề:                                      
Người về. Ừ nhỉ về mà hưởng                                       
phú quí vinh hoa hậu đổi đời                                        
đã khuất nẻo rồi thời bão loạn                                       
sá gì vàng đỏ một trò chơi                                       

Người về kẻ đợi người đưa đón                                       
mừng rỡ thay vì tiếng mặn chua                                        
rủng rỉnh đồng dô la nặng túi                                       
dại gì ai kẻ đuổi người xua….                                                      
    (Người về – THLCD)
Lý do viện dẫn cho những 'trở về', tất cả nghe ra 'hữu lý' nhưng thực sự chẳng hợp tình, hợp cảnh chút nào dù 'trở về' để thăm viếng thân nhân, để nhìn lại quê hương xưa cũ, để hợp tác làm ăn xây dựng đất nước (?) với người Cộng sản hay tệ hơn và tàn nhẫn hơn là để hưởng thụ thân xác gái tơ tuổi đời non choẹt. Mọi “trở về” đều kết thúc bằng một 'ra đi trở lại' ngay cả 'trở về hợp tác, dựng xây' (!)
Song Nhị, một chiến sĩ, một nhà thơ – một chiến sĩ nghệ sĩ - không thể 'trở về' theo kiểu cách đó. Không thể trở về với tâm lý của kẻ 'phàm phu', hoặc với cái nhìn của một ngoại nhân du lịch. Trở về giờ nầy có khác gì với 'trở về' trước đây:                                     
Ngó lại                                       
Buồn                                       
Và tủi nhục                                       
Nỗi đau như cắn xé thịt da người                                       
Đất nước về đâu sau thế kỷ Hai Mươi                                                        
     (Về đâu Đi đâu – THCM)
Những “lối đi xưa” giờ đang héo hắt, lịm mình trong những 'độc tố bọc đường' man trá, giả hình. Không thể 'trở về' “khi bạo lực còn trên ngôi thống trị, Khi nhân loại bước vào tân thế kỷ, Đất nước mình lùi lại mấy trăm năm?” (Phải nói lại những điều đã nói – VLĐX). Chỉ 'trở về' trên những 'lối đi xưa' thuần hậu, hồn nhiên, tươi vui, trong sáng, đẹp đẽ thât sự cho con người, cho lẽ sống:                                     
Mai anh về em nhé                                                                         
Mùa xuân bừng nắng tươi                                       
Cây đơm chồi lộc mới                                       
Hoa thắm lại môi cười                                        
....                                       
Mái nhà xưa ấm lại                                       
Bếp lửa hồng reo vui                                       
Mẹ già thôi nước mắt                                       
Con thơ rộn tiếng cười                                       
......                                      
Hồn thơ anh chắp cánh                                       
Tình em hồng nắng mai                                       
Đời thênh thang rộng mở                                                  
(Mai anh về em nhé – THCM)
'Trở về' là để đi vào tương lai; 'trở về' là để dựng lại 'Cội Nguồn' mà dù cuộc sống có 'vô thường' đến đâu thì trên cái 'vô thường' đó, Cội Nguồn cũng luôn luôn thắp sáng khối óc, trái tim những người không mất gốc: “Du cư suốt cõi vô thường, Trăm năm về, ở ngọn nguồn cõi chung” (Nghĩ về Nguồn Cội – VLĐX) để tất cả, chết, sống, bạn, thù cùng nhìn ra:                                     
Trên mộ bia ai kẻ thua người được                                         
Có nhận ra nhau chung một cội nguồn                                                          
(Phải nói lại những  điều đã nói – VLĐX)
Cái Cội Nguồn nguyên khởi, từ đó vạn hữu đã 'ra đi' đắm mình vào cõi thế để một ngày, sau bao trầm luân dâu bể của hiện hữu vô thường, lại 'trở về' với Nó, với 'ngôi nhà Hằng Thể' (la Maison de l’ Être). 'Trở về' là tìm lại, sống lại thời tuổi mộng nguyên sơ trong một thế giới không sai biệt, không còn đếm đo, chia cắt, tính toán thị phi, tranh giành hơn thiệt. Song Nhị chỉ 'trở về' trong ý đó, với tâm nguyện đó (anh đã đớn đau đành cam bất hiếu không về phục tang mẹ mất ở Việt Nam tháng 4/2002).
'Trở về' không phải để 'trả thù, rửa oán' mà chỉ để góp phần đưa lịch sử sang trang, để đổi chiều lịch sử, để chấm dứt một giai đoạn lịch sử bi thương, mở ra những trang đời tươi đẹp cho mẹ, cho cha, cho đất nước non sông, cho người, cho đời, cho em: “Sẽ làm lại. Sẽ bắt đầu cuộc sống, Em góp nụ cười chung nỗi hân hoan“ (Bài đầu tháng giêng – VLĐX). Còn riêng anh, chỉ một ước mong bé nhỏ: “Anh về hái hạt mùng tơi, làm ve mực tím viết lời yêu thương' (Mực tím mùng tơi – THCM). 'Viết lời yêu thương', vâng, chỉ có thế, chỉ chừng ấy thôi; lời thơ giản dị chẳng chứa đựng gì cao xa nhưng không phải là chuyện dễ làm, không phải ai cũng làm được nếu không có 'tấm lòng' thực sự biết yêu thương. 'Lời yêu thương viết bằng mực tím từ hạt mùng tơi'. 'Hạt mùng tơi', sản phẩm của quê hương, một sản phẩm của tự nhiên hiền hòa, đạm bạc, bình dị, đơn sơ. 'Mực tím', màu tím, màu của suy tư, suy tư về tình yêu thương, do tình yêu thương để hành động vì yêu thương, phục vụ yêu thương hầu cuộc sống, cuộc đời thoát khỏi mọi thứ 'võng ngôn' chia cắt tình người, đã dùng yêu thương làm nhãn hiệu, chiêu bài che đậy bao ý đồ gian manh, biến yêu thương thành thù hận, hờn căm xéo nát tình người.
'Trở về'. Vâng, trở về nhưng bao giờ? Chưa ai trả lời. Song Nhị không xác quyết lúc nào, nhưng:                                     
Lịch sử bước đi bằng đôi hia bảy dặm                                        
lịch sử sẽ trở về                                       
như bào thai đến chu kỳ của nó                                       
và sẽ dừng lại ở những chặng đường                                    
                                       
Dù thời gian có bao lâu                                       
dẫu cuộc đời có vội vã                                       
hối thúc ta                                       
xin em đợi chờ.                                               
(Xin Em Đợi Chờ – THCM)
Xin em đợi chờ. Sớm muộn thế nào cũng sẽ đến 'tự cuối thiên thu nghìn vạn hướng, Quay ngược thời gian sử đổi chiều':                                    
Ngày đi. Ngày đến. Ngày về lại                                       
Vẫn hẹn. Vẫn mong. Dẫu trễ tràng                                     
......                                     
Xin hẹn với nhau cùng lượt nhé                                       
Quê hương xứ sở đón ta về                                       
Cờ bay rợp nắng mùa xuân mới                                        
Người gặp lại người nỗi hả hê                                              
    (Phố xưa đốt pháo đón Giao Thừa - VLĐX -                                                                            
     kính tặng Hoàng Tử Bảo Ân)
Bởi vì 'Quê hương đâu mãi vùng đất cấm, Đời sẽ rộn ràng những bến sông' (Sang mùa - VLĐX).  Xin hẹn, xin chờ: 'Ai đó thương nhau chờ hội mới, Sang xuân sẽ nở rộ hoa hồng' (Sang mùa). Vì rằng 'ĐOẠN CUỐI HÀNH TRÌNH ĐÊM ĐEN SẼ HẾT' (từ giữa ngục tù), vì rằng 'Phút giờ tăm tối nhất của đêm đen lại chính ngay vào lúc bình minh hiển hiện' (2) và 'Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội lần. Nhưng kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng thì sẽ được cứu' (Tân ước Mathieu: 24: 12-13).
Xin hẹn, xin chờ. Ngày đó chắc hẳn không xa. Ngày đó "người gặp lại người", không chỉ trong tình nghĩa cố tri mà trong tình người hảo hợp không còn thù hận, hờn căm, không còn buồn đau, thống khổ mà tất cả hân hoan dù lạ hay quen cũng cùng hoan hỷ trong nghĩa tình " bằng  hữu, anh em".
Ba chặng đường 'Ra đi, Đến ở, Trở về' của hành trình Song Nhị, ba chặng đường đầy gian khổ, bi thương, cô đơn, buồn đau, u uất nhưng không thiếu vắng niềm tin, vẫn tràn đầy khí lực và chan chứa tình người. Hiểu theo Đạo Học, Ba chặng đường, một hành trình không của riêng Song Nhị, không của riêng ai, không của riêng người Việt nơi hải ngoại hiện nay, mà chính là hành trình chuyển dịch của dòng vận hành của Lẽ Đạo, của Thượng Đế, của Thể tính Chân Như  từ 'Chân Không' đi vào 'Diệu Hữu' để trở về với 'Diệu Hữu trong Chân Không'. Đấy là ẩn dụ 'Tổ quốc – Kiều địa – Cố hương' của nhà tư tưởng M. Heidegger (3).
Song Nhị không nói gì về tư tưởng, về triết học nhưng lời thơ đã hàm ngụ tính tư tưởng nơi cõi lòng luôn luôn thiết tha hướng vọng về Cội Nguồn, về mái ấm của ngôi nhà Hằng Thể óng mượt yêu thương. Từ trong cảm thức, Song Nhị đã từ lâu mơ màng âm thầm nuôi dưỡng cái hướng vọng đó, mượn hành trình 'Ra đi, đến ở, trở về' của riêng mình diễn tả tâm trạng, tâm tình và ý hướng vọng về cái lẽ hoằng viễn, thâm sâu bằng lời thơ đơn giản nhưng chất ngất niềm tin.     
Song Nhị yêu thơ và làm thơ từ thuở còn thư sinh. Thơ theo anh suốt cả cuộc đời. Thơ theo anh vào chiến trận, vào ngục tù, sống với anh trong chặng đường 'đến ở' lạnh buồn, 'ngao du' cùng anh suốt mọi ngã đường đất nước trên những 'lối đi xưa' và trên những 'lối đi ngày tới' trong ngày về. Suốt đời anh sống với thơ; suốt đời thơ 'ăn ở' với anh. Thơ cho mẹ, cho cha, cho chiến hữu, cho đồng hương, cho bạn bè, cho cô em nhỏ, cho bé thơ, cho cụ già, cho quê hương, đất nước, cho cuộc đời, cho nhân loại đầy đủ mọi cảnh ngộ, mọi sắc thái của hành trình nhân thế. Thơ là 'chất sống' một người, điều nầy dễ hiểu. Nhưng không chừng đó. 'Chất sống' nơi thơ – với những người thực sự là nhà thơ - mang chở một 'sứ mạng' cao cả, thiêng liêng. Thơ không chỉ là 'tiếng nói của con tim', không chỉ là những biểu hiện của thực tại, không chỉ là những rung động của tâm tư về phận mình hay vận nước mà còn là một 'thăng hoa' ý chí và tâm tình, một thăng hoa dể đạt được cái bản thể tinh anh, thuần khiết của con người nằm sâu trong vô thức hướng về hòa nhập với cái 'bản thể của tự nhiên' (le naturel de la nature).. Song Nhị đã viết:                                      
Tôi sẽ mãi làm thơ                                                                               
Ngôn từ vụng dại                                       
Sẽ lang thang gom gió sớm mây chiều                                       
Để đem về xây tổ ấm thương yêu                                        
Cho hồn tôi hồn em ngủ ngoan trong đó                                       
Tôi sẽ mãi làm thơ                                       
Để cùng em đời đời trăng sao hội ngộ                                       
(dẫu bầu trời sương khói mùa đông)                                       
Tôi sẽ đốt thơ thắp sáng ngọn nến hồng                                       
Soi tỏ lòng tôi – Lòng em                                       
Nếu muốn
                                       
Có thể thơ tôi làm em phiền muộn                                       
Làm mọi người ghét bỏ tôi thêm                                       
Nhưng không ai có quyền                                       
Vắt trái tim lấy máu làm độc dược                                        
Bởi máu tim là dòng suối ngọt                                       
Mãi mãi luân lưu nuôi mạch sống không cùng                                       
Mà thơ là tiếng nói của lòng                                       
Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi
     (Một đời với thơ – VLĐX)

Bài thơ như một 'thông điệp'. Thơ là ngôn ngữ của mọi ngôn ngữ, là nghệ thuật của mọi nghệ thuật. 'Thông thường, thi sĩ được tạo dựng vào khởi điểm hay tận cùng của một thời đại của thế giới. Chính do từ các thi khúc mà mọi dân tộc từ sơ sinh đã từ trời xuống đất để đi vào cuộc mưu sinh, vào địa bàn văn hóa. Chính do từ các thi khúc mà mọi dân tộc trở về với cảnh sống nguyên sơ. Nghệ thuật thiết lập mối chuyển tiếp từ bản thể tự nhiên vào văn hóa và từ  văn  hóa vào bản  thể tự nhiên' (4).

Còn nữa -Xem tiếp kỳ 3

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...