Phật tử biểu tình chống đàn áp Phật giáo
- Thầy Thích Giác Đức thời... trai trẻ
- Dân biểu Nguyễn Công Hoan đổ xăng và châm lửa thiêu sống HT Thích Quảng Đức. Bà Ngô Đình Nhu gọi là "nướng người". (Đón đọc một mẩu chuyện bên lề lịch sử (4).
1.
Năm 1963, trong cuộc đấu tranh của Phật giáo chống chế độ Đệ
nhất Cộng Hòa của TT Ngô Đình Diệm. Tại Sài Gòn, địa điểm tập họp là chùa Xá
Lợi. Hàng ngày có hàng ngàn đến hàng chục ngàn Phật tử đến để nghe đại đức
Thích Giác Đức, phát ngôn viên của Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo VN và là diễn giả
hùng biện, hàng ngày đăng đàn kêu gọi Phật tử xuống đường rầm rộ lên án “chế độ
Diệm-Nhu đàn áp Phật giáo”.
Năm đó gia đình tôi một tuần ba bốn ngày có mặt tham gia để
nghe thầy Thích Giác Đức thuyết pháp. Bố tôi làm việc ở ngoại quốc không tham
dự ngày nào. Tôi có mặt mỗi ngày vài giờ, không phải để tham gia biểu tình mà
để nghe thầy thuyết giảng kêu gọi lật đổ chế độ. Mỗi đêm về nhà tôi đều có viết
một ít dòng nhật ký ghi lại những điều nghe được và bày tỏ ý nghĩ của mình.
Tất cả các trang nhật ký đó có một nhận xét của riêng tôi,
cho rằng miền Nam đang là một xã hội tự do, so với sự cai trị hà khắc của Cộng
sản miền Bắc. Những biến động chính trị lúc bấy giờ đang xói mòn nền tảng ổn
định của xã hội, của thể chế chính trị và làm lợi cho Cộng sản. Một người bạn
học ở trọ tại nhà tôi, đọc được nhật ký đó phản đối tôi quyết liệt. Anh ta nói
rằng tại tôi sống ở thủ đô (Sài Gòn) không về miền quê nên không thấy được
người dân bị chèn ép như thế nào. Tôi nói - “tại mày chưa sống ngày nào với
Cộng sản nên mày chưa thấy quan tài, chưa rơi nước mắt. Ở đây mày được ăn, được
học, được tự do, muốn làm gì thì làm, kể cả chửi chế độ...”. Chúng tôi cãi nhau
tung tóe cho tới ngày anh em TT Diệm bị giết, bà chị họ tôi ngồi khóc, bạn tôi
lấy làm vui. Tôi buồn, cả nhà tôi buồn. Năm sau bạn tôi nhập ngũ, cuối cùng là
Đại úy đại đội trưởng, đánh VC hăng hơn ai hết, đánh tới trận cuối ở Bình Long,
trước khi rút về tản hàng ở Long Khánh.
2.
Tôi có một tuyện ngắn, tựa đề “Duyên Nợ Tiền Thân” đã đăng
trên báo Chánh Đạo, số Xuân 1994 của nhà báo Nguyên Trung tại San Jose. Truyện này sau đó đăng trên báo
điện tử “Thư Viện Hoa Sen” ở Paris,
sau được phổ biến trên một số báo in và báo mạng khác.
Khoảng năm 1995-96 tôi gửi truyện ngắn này cho người cháu rể
của tôi dạy học cùng trường với thầy Thích Giác Đức ở Boston, tiểu bang Massechussett. Cháu rể tôi
trao truyện ngắn đó cho thầy Thích Giác Đức đọc. Đọc xong, thầy phê: Cải
lương!! Khi đứa cháu kể tôi nghe, tôi mới nghĩ ra là nội dung truyện trùng hợp
với hoàn cảnh của thầy, mà khi viết truyện đó tôi chưa hề biết gì về thầy cả.
Sau đứa cháu cho biết thầy đã hoàn tục, đã lấy vợ, có con, sống đời cư sĩ. Tôi
có gọi phone thăm hỏi và nói đôi điều ba chuyện với thầy, nhưng tuyệt nhiên tôi
không đả động gì đến những chuyện xưa và chuyện nay của thầy. Vào những năm
cuối thế kỷ trước (trước năm 2000), thầy có dịp sang San Jose dự đại hội Phật
Giáo ở chùa An Lạc, thầy có gọi thăm tôi. Lúc đó không hiểu sao tôi không tìm
đến chùa An Lạc gặp, thăm thầy, về sau nghĩ lại tôi ân hận.
Một chi tiết bên lề lịch sử của người thật việc thật có can
dự vào một biến cố hệ trọng làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc, để miền Nam
bị rơi vào vòng thống trị của chủ nghĩa Cộng sản, sau khi chế độ Đệ Nhất Cộng
Hòa miền Nam bị đánh đổ, dẫn tới thảm họa 1975.
Đại đức Thích Giác Đức là một nhân vật nổi bật cùng với Phật
giáo Ấn Quang chủ trương triệt hạ chế độ dẫn đến cái chết bi thảm của anh em TT
Diệm, đã cho chúng tôi biết nỗi ân hận về sự sai lầm của thầy. Có lần thầy nói
cứ mỗi năm đến ngày 2 tháng 11 thầy kêu vợ thầy làm mâm cỗ cúng giỗ và tưởng
nhớ anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thầy từng nói: “Tôi nhận một phần trách
nhiệm về cái chết của TT Diệm và ông Ngô Đình Nhu”.
Tôi viết ra những dòng này khi thầy Thích Giác Đức và gia
đình đang sinh sống ở Boston.
Tôi mong thầy đọc được bài viết ngắn này. Và tôi sẽ thêm vào trong cuốn “Nửa
Thế Kỷ Việt Nam”,
nếu có dịp in lại lần thứ ba.
Song Nhị
San Jose, ngày 3 tháng 11- 2014
***
3.
Truyện ngắn “Duyên Nợ Tiền Thân”
Đặng Tâm là đứa con thứ sáu trong một gia đình có tám anh
em. Tâm xuất gia từ năm lên tám tuổi với hòa Thượng Tuệ Giác, một vị cao tăng
tại chùa Long Thọ. Năm ba mươi tuổi, nghĩa là hai mươi năm sau, kể từ ngày Đặng
Tâm theo thầy học đạo, chàng nổi tiếng là một sa môn uyên bác về kinh điển của
nhà Phật và là người có đức độ khó ai bì kịp.
Từ ngày quy y, Đặng Tâm có pháp danh là Pháp Không. Sư Pháp
Không có dáng người thon cao, vẻ mặt quắc thước, sáng sủa. Đôi mắt của nhà sư
như ẩn chứa một cái gì vừa ấm áp, vừa mênh mông huyền diệu. Giọng nói trầm
trầm, truyền cảm làm cho người đối diện phải đem lòng mến mộ.
Một lần, sau buổi thuyết pháp về đề tài “luật nhân quả”,
thầy về tới tăng phòng thì gặp một người con gái đứng chờ trước cửa. Người
thiếu nữ ấy khoảng hai mươi tuổi, ăn mặc theo lối Âu, gương mặt đẹp, sắc sảo,
quý phái. Vừa thấy thầy, thiếu nữ chắp tay, cúi đầu:
- Bạch thầy, xin thầy hoan hỉ cho con được vấn đạo.
- Mô Phật, nếu câu hỏi của tín nữ thuộc lãnh vực hiểu biết
của bần tăng, bần tăng xin sẵn lòng.
Thiếu nữ cung kính cúi đầu:
- Bạch thầy, theo như bài luật nhân quả mà thầy vừa thuyết
giảng, con thấy không phù hợp với những gì đang diễn ra trong xã hội hôm nay.
Như kẻ hiền lành thì lại bị đói khổ, bị áp bức. Kẻ độc ác, gian manh thì
lại được giàu có, uy quyền. Người lương thiện thì chết yểu, kẻ hung tàn lại
sống lâu. Nếu có luật nhân quả sao lại còn những trái ngược đó?
Sư Pháp Không chậm rãi trả lời:
- Nhân quả là gọi tắt của Nhân Duyên Quả Báo. Nhân Duyên có
hòa hợp mới sinh ra Quả. Ví như hạt lúa là Nhân mà hợp với đất, nước, phân
bón là Duyên mà sinh ra cây lúa. Về phương diện nhân sinh, người có Nhân từ
kiếp trước, hiện tại mới gặp Duyên mà sinh ra Quả. Có người kiếp trước đã gieo
Nhân mà mãi đến đời sau, đời sau nữa mới gặp Duyên để thành ra Quả. Bởi lẽ ấy
nên có người đời này tu nhân tích đức nhưng lại bị tai họa. Người khác, đời này
ác độc, hung tàn mà lại được hưởng giàu sang, quyền quý.
Người tín nữ vẫn tỏ vẻ chưa hài lòng với lời giải thích của
sư Pháp Không. Nàng nhỏ nhẹ:
- Bạch Thầy, như vậy là luật nhân quả cũng có kẽ hở?
Sư Pháp Không vẫn ôn tồn:
- Bởi vì người đời không rõ lẽ ác báo và phúc báo. Nhân Ác
trồng ở kiếp này chưa đủ thời gian để thành Quả Ác. Nhân Lành gieo ở kiếp trước
chưa đủ thời gian để thành Quả Phước cho đời hiện tại. Tất cả đều là do vòng
chuyển hóa của luân hồi định nghiệp. Không có kẻ hở như luật pháp của thế gian.
Bánh xe quay nhanh hay chậm thì chỗ ráp nối đến chậm hay nhanh, tùy thuộc vào
vòng quay, vào nội tại của người đạp xe. Bánh xe pháp luân tùy thuộc vào Nhân
Duyên. Người thanh thản đạp xe chậm rãi, kẻ âu lo đạp xe vội vàng. Người thiện
nhiều, nghiệp báo chậm, kẻ ác hung nghiệp báo nhanh. Chậm hay nhanh là do Nhân
Duyên. Lành dữ cũng do Nhân Duyên. Nghiệp báo cũng thế. Tựu trung không sớm thì
muộn: Nhân nào Quả ấy.
Thiếu nữ ngước lên nhìn nhà sư, hỏi tiếp:
- Bạch thầy, thế nào là lòng từ bi?
- Từ bi là tình thương. Bất cứ là thứ tình thương nào mà
người thương biết quên mình, không đòi hỏi một tình thương được trả lại. Từ bi
là một thứ vị tha nhân, không vị kỷ, là một thứ cho mà không nhận.
- Bạch thầy, thế nào là cho? Thế nào là nhận?
- Cho là “xả”, nhận là “thọ”. Cho là “vô”, nhận là “hữu”.
Cho là vì người, nhận là vì ta.
- Như vậy một người nữ yêu một người nam là “cho” hay là
“nhận”.
- Đó là nhận.
- Tại sao?
- Yêu người muốn được người yêu lại, đó là vì yêu mình chứ
không phải yêu người.
Vậy thế nào mới được gọi là “yêu người”?
- Hy sinh, quên mình.
- Khó quá.
- Khó, dễ tại tâm sanh. Không khó, không dễ thì tâm diệt.
- Tâm diệt thì được gì?
- Tịnh lạc.
- Thưa thầy, muốn “lạc” mà không muốn “tịnh” được không?
- Muốn có gió mát mà không muốn cành lá lay động, đó là ảo tưởng.
- Tình yêu có tịnh lạc không, thưa thầy?
- Có và không?
- Xin thầy cho thí dụ.
- Khó quá.
- Khó, dễ tại tâm sanh. Không khó, không dễ thì tâm diệt.
- Tâm diệt thì được gì?
- Tịnh lạc.
- Thưa thầy, muốn “lạc” mà không muốn “tịnh” được không?
- Muốn có gió mát mà không muốn cành lá lay động, đó là ảo tưởng.
- Tình yêu có tịnh lạc không, thưa thầy?
- Có và không?
- Xin thầy cho thí dụ.
- Nước biển mặn là do chất muối. Muối thành do nước biển.
Tình yêu là “dụng”, còn tịnh lạc là “thể”. Bản chất của “dụng” là động. Bản
chất của “thể” là tịnh. Đã động thì bất tịnh. Động thì không có Tịnh Lạc.
- Nói như vậy chẳng khác nào khuyên người ta đừng yêu nhau.
Nòi giống loài người làm sao tồn tại và phát triển để phụng sự Phật pháp.
- Không phải con người phụng sự Phật pháp, vì Phật pháp vốn
là không có. Nói Phật pháp như một thể “hữu” để cho con người dễ hiểu. Đúng ra,
Phật pháp phụng sự con người. Phật pháp là phương tiện đưa con người đến sự
giải thoát. Khi cứu cánh ấy đã đạt đến thì phương tiện kia không còn.
Người thiếu nữ đứng khoanh tay, xưng tên là Hoàng Bích Vân,
nhìn nhà sư rồi nói thật nhỏ:
- Dù sao thì... “em” vẫn muốn cái “tịnh lạc” kia chính là
cái “tình yêu” mà em đang mơ ước kiếm tìm.
Sư Pháp Không chắp tay:
- Mô Phật, điều đó ngoài sự hiểu biết của bần tăng. Xin từ
biệt.
Nhà sư quay lưng bước về phòng. Bích Vân gọi với theo:
- Thầy..! Thầy!..
- Thầy..! Thầy!..
Nhưng cánh cửa sau lưng nhà sư đã đóng lại.
***
Hòa thượng Tuệ Giác nhìn môn đệ đệ của mình là sa môn Pháp
Không rồi nói:
- Thầy muốn con hoàn tục.
Sư Pháp Không giật mình, sợ hãi:
- Bạch sư phụ xin minh xét cho con.
Hòa thượng Tuệ Giác vẫn giọng ôn tồn. Sư Pháp Không nước mắt
đã ràn rụa, nhạt nhòa, quỳ xuống lạy thầy:
- Xin sư phụ hỉ xả. Đừng đuổi con. Con đã nguyện trọn đời
nương thân chốn thiền môn.
- Thầy đã nói hết lời rồi. Đó là nghiệp quả của con. Kiếp
trước con đã hẹn hò với người ta nên đời này con phải trả, phải làm tròn lời
hẹn ước.
Sư Pháp Không năn nỉ:
- Bạch sư phụ, tất cả không phải vì con. Xin sư phụ cho con
được nương thân dưới bóng từ bi của sư phụ, của Phật pháp.
- Đừng, con đừng nói thêm nữa. Khi nào con dứt căn duyên,
làm xong lời thề ước với người ta, con hãy trở về đây. Còn bây giờ... con về
phòng thu xếp. Đừng lại từ giã thầy. Con đi đi. Đóng cửa phòng lại cho thầy.
Nói xong, Hòa thượng kiết già, mắt nhắm nghiền, người cứng
như pho tượng. Biết không còn có thể thưa gửi được gì thêm, sư Pháp Không lạy
thầy rồi bước ra ngoài, vừa đi vừa khóc.
**
Thấm thoát đã hai năm, thời gian đi nhanh quá. Đặng Tâm ở
một mình trong một am nhỏ trên mảnh đất của tổ phụ. Chàng vẫn ăn chay, giữ
giới, mặc dù giờ đây chàng đã mặc áo đời. Nhiều người trước đây quen biết với
gia đình chàng, thấy Đặng Tâm hoàn tục, có ý muốn gả con gái cho chàng. Nhưng
chàng đều từ chối. Những lúc ngồi một mình chàng buồn vời vợi. Bạn bè khuyên
chàng nên lập gia đình, chàng cự tuyệt. Đặng Tâm muốn được tâm hồn thảnh thơi
nhưng đã bị những cô gái quanh vùng đến quấy rầy. Có người đến nghe thầy giảng
kinh. Có kẻ đến xin thầy học đàn Tây Ban Cầm. Lại có cô xin được đến nấu cơm,
giặt giũ săn sóc... Đặng Tâm khổ sở lắm.
Rồi vào một buổi sáng, Đặng Tâm thay xong y phục, định đến
thăm một người bạn thì Bích Vân, cô gái “vấn đạo” cách đây hai năm đột ngột
xuất hiện. Vừa nhìn thấy thầy, cô chợt òa lên khóc.
Đặng Tâm lo lắng: cất tiếng hỏi:
- Cô có gì buồn lắm phải không?
Bích Vân càng khóc lớn hơn, Đặng Tâm nói tiếp:
- Ở đây cô không nên làm thế. Nếu người ta hiểu lầm thì thật
là tai hại cho tôi.
Bích Vân nức nở:
- Em đã tìm thầy suốt mấy năm, hôm nay mới gặp. Bây giờ thầy
đã hoàn tục, còn sợ gì người ta hiểu lầm nữa.
Đặng Tâm ngạc nhiên:
- Cô tìm tôi? Nhưng để làm gì?
Bích Vân lau nước mắt. Đôi mắt đẹp và buồn ngước nhìn Đặng
Tâm:
- Em... em... không thể sống xa thầy.
Đặng Tâm cố nén cơn giận dữ vừa òa đến:
- Cô có biết vì cô mà tôi phải xuất tự không?
Bích Vân thổn thức:
- Dạ em biết.
- Đã biết mà cô còn tới tìm tôi?
- Em tìm... anh để nói cho anh hay là...
Đặng Tâm xoa tay:
- Cô đừng nói gì cả. Điều mà cô sắp nói không ý nghĩa gì.
Không ích lợi gì cho cô và cho tôi. Cũng vì điều cô sắp nói, cô đã làm mà thầy
tôi bắt tôi phải hoàn tục. Hai mươi năm tu hành, phút chốc vì cô mà phải uổng
phí.
- Giờ đây anh đã về nhà. Cuộc sống của anh đã khác, không lẽ
cứ như thế này mãi. Gia đình em giàu có. Nếu chúng ta kết hôn, anh sẽ không còn
vất vả nữa.
Đặng Tâm thở dài chán nản:
- Cô vẫn giữ mãi ý định kỳ lạ đó? Tôi chưa bao giờ nghĩ đến
tình ái ở cuộc đời này. Tôi tha thiết xin cô hãy bình tâm trở lại, nếu có thể
chúng ta sẽ làm bạn, chứ không thể là vợ chồng.
Bích Vân gắng gượng hỏi:
- Có ai cấm anh lập gia đình đâu.
- Tâm ý của tôi không cho phép.
Không lay chuyển được lòng dạ sắt đá của Đặng Tâm, Bích Vân
vô cùng tuyệt vọng, nàng đứng lên quay gót, bước đi như một kẻ không hồn.
Biết không thể ở đây được, Đặng Tâm đóng cửa am, đi tìm một
nơi nào đó để được an thân, bình tâm mà tu hành. Trên đường đi, một hôm chàng
ghé vào chùa Bửu Tự vấn an sư thúc là Hòa thựơng Pháp Nhãn. Sau khi kể sự việc
phải hoàn tục của mình, Đặng Tâm thỉnh cầu sư thúc xin với sư phụ của chàng để
trở về chùa cũ. Hòa Thượng ngồi tịnh một giờ lâu rồi mở mắt nhìn Đặng Tâm:
- Oan nghiệt! Đó là oan nghiệt, là tiền căn.
Đặng Tâm xin sư thúc chỉ rõ. Hòa thượng Pháp Nhãn chậm rãi
nói:
- Ngươi đã có ấn chứng, sao không dùng mà soi lại tiền kiếp
của mình.
Đặng Tâm như sực tỉnh, nhưng chàng vẫn thưa:
- Nhưng còn cô gái Bích Vân, thưa sư thúc.
- Cứ ngồi định tâm, thầy sẽ giúp cho.
Chàng ngồi vào nệm cỏ, buông xả hết mọi ưu tư, tạp tưởng.
Một lúc, Đặng Tâm thấy một luồng thanh điển đưa chàng đến một nơi xa lạ. Đăng
Tâm thấy mình là một thầy tu, đem lòng yêu thương một thiếu nữ con nhà giàu có.
Chàng trốn chùa về ở với người con gái đó. Được vài năm, hạnh phúc đang tràn
đầy thì người con gái đó chết. Chàng quá thương tiếc, thề suốt đời ở vậy, không
tục huyền. Người đó là Bích Vân kiếp này.
Khi biết rõ tiền căn duyên nợ, chàng thở dài, mở mắt. Vị sư
thúc của chàng an ủi:
- Bây giờ, một là con lấy nàng, hai là con phải ở vậy cho
tới suốt đời. Nếu lấy nàng, trả hết nợ tiền căn con mới được quy tự, tiếp tục
tu hành. Nếu không, con phải sống một cuộc đời nửa tăng nửa tục. Kiếp sau nữa
con vẫn phải tái sanh mà kết duyên tơ tóc với nàng. Sẽ cứ như vậy mãi. Con
đường giải thoát của con còn bất tận.
Đặng Tâm phiền muộn vô cùng.
Từ đó thỉnh thoảng người ta thấy chàng thanh niên tuấn tú ấy
xuất hiện, nay tới chùa này, mai tới chùa khác để “soi căn” cho những bá tánh
thỉnh cầu. Trong lời “soi căn”, chàng dùng những ẩn ngữ sâu xa, diễn tả bằng
thể văn vần song thất lục bát. Lời ngâm đều, chậm, mang những dư âm buồn man
mác xa xôi.
Cũng vì căn duyên tiền định, Bích Vân vẫn lâu lâu tìm gặp
Đặng Tâm một lần, dù chỉ để nhìn nhau một thoáng, nói vài câu van xin và nghe
mấy lời cự tuyệt. Nhưng hình ảnh cô gái diễm kiều này đã dần dần len vào tâm
tưởng Đặng Tâm. Lần gặp lại Bích Vân mới đây chàng đã có những lời lẽ thân tình
gần gũi hơn. Khoảng cách biệt đã dần dần được thu hẹp, để xích lại lằn ranh kết
nối của cuộc hẹn hò duyên nợ tiền thân.
song nhị