Wednesday, September 23, 2015

Thơ Lính Miền Nam



















TÌNH CA NHẬP CUỘC
(ngày lên đường nhập ngũ)

Xin từng đốt ngón tay mỏi mòn lời hứa hẹn
xin ngày tháng dài ao ước đơn sơ
xin một lần gõ cửa gọi tên người còn đáp lại
xin cho quay về nhận diện ấu thơ

Vì mỗi đêm còn mùa hè lửa đốt
vì ngày mai mùa đông thiếu áo che thân
khi ấn tượng quê hương vết hằn chiến tích
khi hỏa châu soi mảnh đất khô cằn

khi ở phương này quê hương có thực
phận số an bài nối tiếp hy sinh
ý thức bảo tồn nhường ngôi tự chủ
bốn nghìn năm vốn liếng
những cuộc nhục vinh
điệp khúc da vàng trường ca nhẫn nhục!

Xin bồng súng chào mừng đồng loại
nhận huấn lệnh đi vào cuộc đời
sự khởi đầu bằng vết hằn ký ức
và gió mưa luân vũ quay cuồng
những đứa bạn nằm yên dỗ giấc
cũng thôi!
hạnh phúc vẹn toàn

Xin tiếng nói đây em
một lần từ biệt
xin tiễn đưa bằng nỗi nhớ xa xôi
xin con tàu vào viễn lộ hoàng hôn
sương mù biển lặng
gom hết yêu thương đốt lửa giữa trời

Xin bài kinh cầu trổi thành nhạc khúc
một phút an ủi vỗ về
một phút bình yên trên vùng ảo tưởng
ôm tròn hoài niệm quay đi
sự có mặt của những ngày dẫy đầy triệu chứng./
                                                           
KBC 4100.
(thi phẩm Về Lối Đi Xưa, 1999)



Thursday, September 17, 2015

NIỀM VUI BẤT CHỢT





















viết cho bà xã
ngày các con Bảo Khánh, Thụy Khanh
vào đại học.

***

Em ạ
Bỗng dưng mình trẻ lại
Dẫu hồn nhiên phơi phới đã xa rồi
Nhớ thuở nào trái chín mọng nguyên tươi
Hoa lá đất trời
Rộn ràng tở mở
Làm sao để quên
Làm sao không nhớ
Buổi em về vành vạnh một vầng trăng
Có con mèo ngoan quấn quýt tung tăng
Rúc vào lòng anh thở quen hơi ấm
Có con sáo
Đậu trên vai anh mỗi sáng
Chờ được mớm mồi trên những vuốt ve
Có con vành khuyên hót mỗi trưa hè
Có suối-tóc-mây phả mùi hương lạ
Anh quên mất những mấy mùa Xuân. Hạ
Chợt giật mình
Mây phủ khuất mùa trăng
Buổi anh đi đời nổi sóng đất bằng
Người rã gánh con chim ngừng tiếng hót
Ta xa nhau giữa mùa-trăng-mật-ngọt
Anh đầu non em ở tận cuối nguồn
Anh bên trời ngày nắng cháy mưa tuôn
Con sáo bên sông cầm canh bến đợi
Khi anh về chắp lại đời trôi nổi
Thắp tiếp mùa trăng sáng thuở ban đầu

Mới đó....
các con mình khôn lớn thật mau
Em ạ
nghe tiếng trẻ giòn vui
bỗng dưng mình trẻ lại.

song nhị/ 12-2003

Saturday, September 5, 2015

Tuyển tập 50 Năm Cầm Bút



T Ự A
VAI TRÒ VĂN NGHỆ SĨ TRONG ƯỚC NGUYỆN CỐNG HIẾN SỰ THẬT

Tâm hồn, cốt cách một dân tộc biểu hiện qua nội hàm văn hóa – Văn hóa đậm nét đặc thù. Dưới vòm văn hóa, văn học nghệ thuật là trụ cột trung tâm, vai trò chủ đạo.

Văn học nghệ thuật hình thành bắt nguồn từ sinh hoạt xã hội. Thực tế cuộc sống phơi trải rõ nét con người, chủ thể tác động, tổng hòa trong tương quan nhân quả.

Không một ai đứng ngoài lề xã hội, lại đương nhiên nhận một nghĩa vụ theo trí năng chính mình. Nhà kinh tế gắn bó với con số thống kê toán học để nhận biết thành quả thu đạt, phát triển. Nhà chính trị cổ vũ, tuyên truyền cho một lý tưởng, chủ nghĩa này, nọ. Nhà giáo dục giương cao tấm gương soi rọi luân lý, đạo đức thánh thiện v.v…

Người nghệ sĩ, trong sinh hoạt xã hội được coi như một chứng nhân, quan sát và khám phá dưới ánh sáng hiện thực, tự do.

Trải nghiệm thông suốt xã hội, lý và tình, chịu thử thách giữa vô thường hệ lụy, nhà văn Song Nhị nắm bắt nhiều sự việc đáng quan tâm, chia sẻ tình cảm cùng cảnh ngộ; đồng thời cũng là nguồn hứng khởi chân thành cống hiến Sự Thật mà bất cứ nghệ sĩ chân chính nào cũng từng một lần ước mơ thực hiện.

Tập hợp nhiều bài viết liên quan thời thế, con người, xã hội, quá khứ lùi xa và hiện tại sôi nổi, tập sách đã nói lên nhiều điều đáng suy gẫm.

Cổ nhân truyền tụng “Làm chính trị mà sai lầm, giết hại một nước; Làm văn hóa mà sai lầm, giết hại muôn đời”. Văn hóa tồn tại trường cửu, là ngọn đuốc soi chiếu tâm thức con người giữa mặt bằng đa diện của xã hội, chứ không là chính trị, quân sự… cũng không phải là quyền lực, triều đại nào khác.

DIÊN NGHỊ
Tháng 4/2015

***

CHƯƠNG DẪN NHẬP

VÀI MẨU CHUYỆN RỜI


MỘT.
Nhà thơ Hà Thượng Nhân trong bài tựa cho tập thơ Tiếng Hờn Chiến Mã của tôi, ông viết:
“... Mỗi con người, nhất là những người cầm bút đều có ít nhiều kỷ niệm đáng trân trọng. Viết chính là để “trang trải nỗi lòng”. Con người vốn là một con vật xã hội. Chúng ta ai cũng cần bạn bè, cần chia sẻ nỗi ước mong, biến cái khoảnh khắc hết sức phù du và hữu hạn là cuộc đời thành một cái gì trường cửu.

 “Thơ đối với Song Nhị, như một cái nghiệp. Mười chín, hai mươi tuổi đã làm thơ. Từ đó cho đến bây giờ, do một sự ngẫu nhiên lạ lùng, dù ở học đường, dù trong quân ngũ, ở đâu công việc của Song Nhị cũng gắn liền với báo chí, văn chương...”

**

Năm mươi năm sau, kể từ ngày tôi thực sự dính dáng vào nghiệp viết lách, nhìn lại, quả đúng như tiền bối Hà Thượng Nhân đã nói.

Như một nghiệp dĩ, năm 1965, tại giảng đường Đại học Vạn Hạnh, tôi được đề cử làm Trưởng Ban Báo chí Tổng Hội Sinh Viên. Mấy tháng sau tôi được giao Chủ biên đặc san Xuân Văn Khoa Vạn Hạnh với sự góp mặt của Sinh viên và các giáo sư của trường. Năm 1966, tôi được đề cử làm Chủ bút Bán nguyệt san Hướng Đi SV Vạn Hạnh.

Tiếp đến, năm 1968 làm chủ bút đặc san Máu Lửa. Năm 1969 vào quân trường tôi được mời vào Ban Báo Chí/ Biên tập viên Nguyệt san Bộ Binh. Ra trường, biệt phái về cơ quan dân sự, tôi đang làm việc tại Sở TB Quốc Ngoại, hơn nửa năm sau được điều về Sở An Ninh Nội Chính để chuẩn bị công việc ấn hành một tờ nhật báo của chính quyền - nhật báo Quật Cường.

Định mệnh đẩy đưa từng bước như thế, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến, hay có dự tính.

Trước ngày khởi sự công tác cho tờ báo này, chúng tôi có một buổi họp mặt trong một bữa cơm trưa tại nhà khách cơ quan, do Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình khoản đãi. Thực khách gồm một số nhân sự trong cơ quan và các ký giả nhóm “Nồi Niêu Soong Chảo” (*) gồm Anh Quân, Trịnh Viết Thành và Hoàng An.  

Trong bữa cơm, tướng Bình nói rõ mục đích “bữa cơm thân mật” và chỉ thị “nhờ cậy” chúng tôi đảm trách một tờ nhật báo. Tướng Bình cho biết, tờ báo được ấn hành dưới hình thức báo tư nhân, vốn do cổ đông đóng góp, có sự hỗ trợ tài chánh của Phủ Tổng Thống. Giám đốc Trị Sự là chủ nhân nhà thuốc tây Vườn Xoài (đường Trương Minh Giảng/ Lê Văn Sỹ), không là một giới chức dân chính hay quân đội.

Việc đặt tên cho tờ báo, có nhiều tên được đề nghị, Tướng Bình chọn Quật Cường, và chắc là vị tướng có đệ trình, thỉnh ý Tổng thống.

Tôi được cắt cử làm việc với ký giả Anh Quân tại một phòng, thuê trên tầng lầu thứ tư khách sạn Mỹ Lệ (đường Gia Long, nay là Lý Tự Trọng, Saigon). Trong hai tháng, hai người chúng tôi phải hoàn tất manchette tờ báo, trình bày hình thức và các tiết mục trên trang nhất. Chọn lọc và phân bố các tiết mục cho 23 trang trong (số ra mắt có 24 trang). Phần chính của manchette, quan trọng ở kiểu chữ và màu của tên tờ báo, phải mướn họa sĩ vẽ. Bản vẽ và bản kẽm hoàn tất, trình thượng cấp, được chấp nhận. Tòa soạn đã có một bộ phận thuê mướn và thiết trí phòng ốc làm việc cho ban biên tập, cũng trên đường Gia Long, gần ngã Sáu SG. Tôi cùng vài ba viên chức cơ quan được cử ra làm việc tại tòa soạn cùng với các ký giả Anh Quân, Trịnh Viết Thành, Hoàng An và phóng viên Đường Thiên Lý (bên nhật báo Chính Luận).

Hai tháng sau, tôi được điều về cơ quan nhận Chủ Sự phòng Báo Chí, thay thế Trung tá Châu Quan Sỹ. Ông Sỹ thuyên chuyển đi đâu tôi không rõ. Nghe nói ông có bà con với bà Thiệu. Trước khi rời phòng Báo Chí, ông được  truy tặng một Chương Mỹ Bội Tinh của Tổng Thống.

Cuối tháng 3-75, tôi và Nguyễn Việt Chước, anh bạn cùng khóa Sĩ Quan Thủ Đức biệt phái về Phủ, nhận Nghị định thăng cấp Chánh Sự Vụ, theo ngạch hành chánh, thay vì lên Đại úy, phải do Tổng Thống ký, phải chờ đợi và khó khăn. Trước đó Bộ Tổng Tham Mưu đã có thông tư quy định những sĩ quan biệt phái về hành chánh phải dừng lại ở cấp bậc Trung úy. Nghị định thăng cấp này (và riêng tôi cũng có một Chương Mỹ Bội Tinh) sẽ công bố vào ngày 5 -5 - 75, ngày thành lập Phủ Đặc Ủy, nhưng vào ngày đó tất cả chúng tôi thay vì nhận nghị định thăng thưởng thì phải đến trình diện Việt Cộng.

hai
Trở lại chuyện về lại cơ quan nhận coi phòng Báo Chí, tôi thật sự không bằng lòng, không vui, khi phải rời tòa soạn. Ông Giám đốc biết ý, ông kêu tôi ra hành lang tầng Một của Phủ, ông quàng vai tôi, nói lời khuyến dụ nhẹ nhàng: “chúng tôi biết các anh đã chọn nghề dạy học, nhưng nhu cầu cấp trên đang cần các anh. Các sếp cần các anh làm việc. Anh nào muốn đi dạy có thể lấy giờ dạy thêm”.

Sở dĩ ông Giám đốc đưa ra việc dạy học của chúng tôi, vì ngay những tuần lễ đầu biệt phái về cơ quan, chúng tôi có ba người là giáo chức, Nguyễn Việt Chước, Phạm Hữu Đàm và tôi, đã yêu cầu được trả về Bộ Giáo Dục.

Cảm kích trước lời nói và cử chỉ của ông Giám đốc, có quyền hành thực sự như một Thứ trưởng An ninh, tôi vui vẻ về phòng làm việc. Tôi nói, “có quyền hành thực sự như một Thứ trưởng An ninh”, vì là một Trưởng Ban như các Trưởng ban khác, nhưng chỉ ông Trưởng Ban A10 có tài xế, xe riêng, có một Trung úy Cảnh sát thường phục, một Trung sĩ Biệt Động quân là body guard, xe Jeep và xe Honda moto hộ tống khi đi công tác vào ban đêm.  Có những lần mười một, mười hai giờ đêm, ông phone về cơ quan bảo tôi gọi về nhà ông cho bà vợ ông biết, “Ông đi công tác, đêm nay về trễ”.

Một dạo có tin ông sẽ sang Bộ Nội Vụ làm Thứ trưởng và có người xầm xì nói, tôi sẽ là chánh văn phòng của ông. Đó chỉ là tin hành lang. Có những việc tưởng như thật nhưng... “nghe qua rồi bỏ”. Một lần, vào khoảng sau 11 giờ đêm, ông Trưởng ban cho tùy phái đến nhà gõ cửa, gọi tôi vào gặp ông. Đến nơi ông hỏi tôi –Trước đây anh ở Lào mấy năm? Anh nói được tiếng Lào phải không? Nếu anh sang Lào công tác dài hạn có gì trở ngại không? Ông còn nói thêm: Anh mới cưới vợ, chắc xa nhà cũng nhớ? Nhưng mỗi năm được về phép một hai lần, mỗi lần hai tuần lễ. Tôi chợt bất ngờ, hơi bối rối. Điều tôi nghĩ đến đầu tiên là phải bỏ ngang mấy lớp tôi đang dạy ở Phan Sào Nam. Nhưng tôi đáp mà không suy nghĩ: “Chắc không có gì trở ngại. Tôi hỏi ý nhà tôi rồi sẽ trả lời”.

Câu chuyện chỉ bằng ấy, nhưng phải vào cơ quan trình diện lúc nửa đêm. Tôi tưởng như sắp sửa thu xếp hành lý đến nơi, nhưng một tuần rồi hai tuần, một tháng rồi hai tháng trôi qua trong “im lặng dễ sợ”. Sau đó có tin anh Lê Quang Pháp ở nha TB Quốc Ngoại đã “trúng tuyển”. Tôi thật sự lấy làm vui vì được ở nhà và tiếp tục đến với các lớp học tôi đang phụ trách.

Chúng tôi đi dạy học là do “khẩu lệnh” cho phép của ông Trưởng Ban. Hơn một tháng, sau khi được gợi ý, tôi đến trường Trung học Phan Sào Nam, nơi tôi đã dạy học ở đó từ niên khóa 1966 - 1967, gặp ông Giám Học và được nhà trường chia cho thời khóa biểu dạy 10 giờ mỗi tháng.
Về sau số giờ tôi phụ trách tăng lên gấp hai lần. Tôi tiếp tục “nghiệp dư” này cho tới tháng 4-75. Nguyễn Việt Chước về dạy ở Trung học Lê Bảo Tịnh, Phạm hữu Đàm về dạy trường Anh ngữ Nguyễn Ngọc Linh.

Sở dĩ chúng tôi được phép và yên tâm đi dạy học, vì giờ làm việc của chúng tôi không cố định trong 8 giờ hành chánh. Có những ngày tan sở, tôi được lệnh ”ở lại có việc”. Có khi ra quán Bà Cả Đọi, trên đại lộ Nguyễn Huệ ăn cơm, rồi trở vào làm việc đến mười hai giờ đêm, một giờ sáng. Những lần có “biến”, tôi được chỉ thị ở lại suốt đêm (như lần bắt DB Nguyễn Tấn Đời, lần bắt ông Nguyễn Văn Ngân, Phụ tá Tổng Thống hay lần bắt Huỳnh Văn Trọng v.v.). Năm 1973, sau hiệp định Paris, phái đoàn Quốc Hội Mỹ đến Sài Gòn thẩm định tình hình để... cúp 300 triệu Mỹ kim viện trợ, tôi phải thường trực 24 giờ nhiều đêm. Những giờ “over time” này không được trả lương phụ trội.

ba
**
Trước khi rời tòa soạn tôi đã nhận phụ trách mục THƠ  và mục Chuyện Phiếm. Sau đó tờ báo mở thêm trang Dịch Thuật, Văn Hóa Xã Hội, thù lao 100 ngàn cho trang báo, mỗi người 25 ngàn, trong khi lương Trung úy với phụ cấp chức vụ, phụ cấp đắt đỏ tôi chỉ lãnh hơn 32 ngàn/tháng. Anh chủ nhiệm mời tôi, bốn người chia nhau viết. Sau mấy tháng vừa viết báo, vừa dạy học, vừa làm việc tại cơ quan, tôi dần dần thấm mệt, bèn xin anh chủ nhiệm tìm người thay thế tôi trong trang dịch thuật và mục Chuyện Phiếm. Anh chủ nhiệm nói với tôi rằng, khi tôi rời tòa soạn là đã xa nhau, có khi một hai tháng không gặp lại. Trang báo là nơi để anh em hàng tuần gặp nhau (nộp bài và lãnh lương, ra quán ngồi “lai rai” với nhau. Ngày nào kẹt quá anh ấy sẽ viết giùm tôi. Nể bạn, tôi tiếp tục cố gắng cho đến ngày tòa soạn bị... giải phóng.

Quật Cường là tờ báo của chính quyền, nhưng không  có Tổng Biên Tập quyền hành ghê gớm như báo Nhân Dân của Hà Nội. Cũng có một “Giám đốc chính trị” ở cách xa tòa soạn, quyền hành trên chủ bút, cử một “phụ tá chính trị” ngồi ở tòa báo làm việc với Ban Biên tập. Cùng là anh em với nhau nên rất thoải mái. Tôi nói “Giám đốc chính trị”, nhưng thật ra không hề có danh xưng này và chỉ vài ba người trong tòa soạn biết có “nhân vật” này thôi. Khi có một vấn đề thời sự nóng bỏng nào đó, chính quyền cần lên tiếng, thỉnh thoảng nhân vật này kêu tôi viết bài xã luận cho tờ báo. Chẳng hạn khi chính phủ VNCH tố cáo Hoàng thân Sihanouk cho Hà Nội sử dụng lãnh thổ Cambode chuyển quân và vũ khí vào miền Nam VN, Sihanouk chối và còn tố ngược VNCH xâm phạm chủ quyền Cambode, Tổng Thống Charlles de Gaulle và thủ tướng Pháp Pompidou lên tiếng bênh vực Cambode, tôi được yêu cầu viết một bài xã luận cho đề tài này. Môt lần khác, TT Nguyễn Văn Thiệu trên đường từ Hoa Kỳ về ghé châu Âu, muốn yết kiến thủ tướng Đức nhưng ông Willy Brandt không tiếp, tôi lại được chỉ định viết bài xã luận “có thái độ” với thủ tướng Đức Willy Brandt. 

Mục chuyện phiếm khiến tôi mất nhiều thì giờ và nhức đầu hơn cả, vì mỗi tuần lễ phải có một đề tài cho một bài trên trang báo cuối tuần. Đề tài cạn, sức viết chẳng dồi dào bao nhiêu, thì giờ kín khít.
Niên học 1971-72 thể lệ thi Tú Tài thay đổi, bãi bỏ lối thi concours, “kiểu Pháp”, áp dụng từ năm 1955-56, chuyển sang thi Test kiểu  Mỹ, a, b, c khoanh. Tôi vớ đề tài này viết liền ba kỳ “Than ôi Tú Tài”!  Trước đó các kỳ thi Tú Tài I và Tú Tài II, còn gọi là Tú Tài Toàn Phần thật là căng. Thí sinh vừa thi vừa run. Có đậu Tú Tài I (lớp đệ Nhị) mới được lên lớp Đệ Nhất, có đậu Tú Tài II mới được vào đại học. Rớt Tú Tài Một đi Trung sĩ, đậu Tú Tài Một đi Sĩ Quan. Dân gian ngày đó có câu ca dao: “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ/ Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con”.

Ngày đó đậu thi viết Tú tài II xong còn phải qua cửa ải thi vấn đáp. Thi vấn đáp, mặc sức Giám Khảo muốn hỏi gì thì hỏi. Khi vui, trông mặt thí sinh dễ coi thì cho đậu, trả lời câu được, câu mất, lại trông “khó ưa” thì... “em về thi lại kỳ sau”, kỳ sau “ao” nữa thì vào Thủ Đức, thế nào cũng ra trường, mang lon Chuẩn Úy, rồi Thiếu Úy, rồi biết đâu lên vù vù, xui xẻo, đến số thì... “Tổ Quốc Ghi Ơn”!

Thi theo kiểu Mỹ a, b, c khoanh, nếu có học, có “gạo bài” thì trong ba câu có một câu đúng, dễ dàng cho thí sinh nhận biết. Chẳng phải làm nguyên một bài luận văn dài, giải một bài toán kèm theo chín mười câu hỏi nữa. Mà có khi, đề thi là những câu đố, thử sức thông minh của học sinh chứ không phải kiểm tra học lực. Ngày tôi thi Tú Tài II ban Toán, phòng tôi chỉ có 5/35 thí sinh trúng tuyển. Đó là lý do tôi “bất mãn” với  concours và “phân bì” với a,b,c khoanh. Nhưng rồi chính tôi cũng đã soạn đề thi Tú Tài I a,b,c cho học sinh lớp luyện thi tôi phụ trách.

Một trong số 5/35 thí sinh trúng tuyển nói trên là bạn học cùng lớp với tôi, kết quả “oanh liệt” đúng như tên cha mẹ anh đặt cho: Liêu Sanh Oanh Liệt, đậu hạng ưu, được học bổng du học Hoa Kỳ, sau là Giáo Sư tại đại học  Havard. Cuối tháng Tư/ 75 anh về Sài Gòn đưa mẹ và em gái di tản thì bị kẹt lại, bị bắt đi tù, vì ở Mỹ về “phải là CIA”. Người bạn dạy cùng Phan Sào Nam với tôi, không bị đi cải tạo cho tôi biết Liêu Sanh Oanh Liệt chết trong tù !!

**
Sau mục “Than ôi Tú Tài”, tôi men sang đề tài thời sự đang rất sôi nổi trên làng báo và trong dư luận lúc đó, khi BS Hà Thúc Nhơn tử thủ tại bệnh viện Nha Trang chống tham nhũng, và BS Phạm Văn Lương tuyệt thực trước thềm tòa nhà Quốc Hội đòi điều tra tham nhũng, tôi viết hai bài  phiếm “Tham Nhũng, Ông Ở Đâu?”, đưa ra tòa soạn trao cho người “phụ tá chính trị”. Anh này cầm lên thấy cái tựa hơi… lạ, đọc khoảng nửa trang thì nhìn tôi ra vẻ ngạc nhiên, cất triếng hỏi: - Anh viết bài này cho ai? Cho báo nào? Anh muốn tôi và anh cùng đi ra khỏi đây à. Tôi nói, cả làng báo đang ầm lên chuyện này. Mình không có tiếng nói chẳng hóa ra đồng lõa. Vả lại, chuyện phiếm thôi mà! Tôi có kể tội ai đâu. Anh ta dịu giọng thân mật, “thôi bỏ đi”, rồi kêu tôi ra quán uống cà phê, tôi từ chối vì phải vào cơ quan.

Ngày BS Lương tuyệt thực, lại chính anh “phụ tá chính trị” này tại Quật Cường gợi ý, chắc không phải là đùa, rủ tôi và anh chủ nhiệm, ba người cùng ra tuyệt thực hỗ trợ BS Phạm Văn Lương. Bàn đi tính lại, đưa ra cái giá phải trả (cho việc làm bốc đồng bậy bạ ấy) cả ba im lặng giải tán.

Rất may, ngày đó tuổi trẻ bồng bột, nhưng không quá nông nổi, nếu không hậu quả sẽ là, giá thấp nhất, ra vùng giới tuyến ôm súng canh chừng Việt cộng, hoặc ra trước vành móng ngựa Tòa Án Quân Sự Biệt Khu Thủ đô…

Thật ra, ngày đó chúng tôi không thấy “ông tham nhũng” ở đâu cả. Thỉnh thoảng gặp một anh tài xế xe Lam giúi mấy chục bạc vào tay một Cảnh sát kiểm soát lưu thông, tuy khó chịu, tôi nghĩ “làm thế ấy thì mất lòng dân lắm”, nhưng lại nghĩ là chuyện nhỏ và thông cảm, họ túng thiếu.
Bốn mươi năm sau, nhìn hiện trạng tham nhũng có hệ thống, thành quốc sách của đảng CSVN thì phải khẳng định chế độ VNCH quá trong sạch.

**

bốn
Tôi không nhớ chính xác năm tháng khi tôi làm bài thơ đầu tiên vào năm nào, nhưng có thể vào thời mười  lăm, mười sáu, khi bắt đầu biết liếc trộm những cô nữ sinh cùng lớp và khi tan trường về đã biết lẽo đẽo theo sau, dù  hãy còn rất nhút nhát. Những bài thơ làm lúc ấy, bây giờ nếu còn, đọc lại chắc ngây ngô lắm.

Năm 1960 - 61, tôi đã có thơ đăng báo tường. Thơ vào độ tuổi lúc bấy giờ là thơ tình. Tình yêu học trò, đầy chất lãng mạn. Tình yêu như hạt sương lơ lửng trên những đài hoa, “thánh thiện” thanh khiết. Chỉ một cái tình cờ chạm tay là hai luồng âm dương giao thoa xúc cảm, tựa hồ như chạm khẽ vào một sợi giây đàn. Năm 1964 - 65 tôi đã có thơ gởi đăng ở nhiều báo… Từ năm 1967 đến năm 1974 tôi đã có ba tập thơ viết, in… để mà chơi.

Có hai bài thơ tình sớm nhất tôi còn giữ được, bài “Lời Cảm Tạ Một Tình Yêu”, sáng tác năm 1962 cho một “mối tình” học trò, một thời mơ mộng. Năm năm sau tôi làm bài thơ thứ hai cho “cuộc tình” ấy, bài “Chạnh Niềm Yêu Dấu”. Bài thơ này đã được Nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc trong một album phát hành ở Singapore vào năm 1997 hay 98...

Tôi sẽ in hai bài thơ này vào chương sáng tác như để cắm vài bông hoa, thêm chút tươi mát giữa một cánh đồng không mấy bóng râm trong tuyển tập này. Hai bài thơ có âm điệu buồn như hai câu thơ tiếng Anh diễn tả:

Love is a garden full of flowers
Nobody enters without falling his tears!
Trường Tình là cánh đồng hoa
Ai đi qua đó chẳng sa lệ sầu!

Sau cuộc đổi đời, tôi cùng đoàn quân rã ngũ lê thân qua các trại tù cải tạo, trả nợ quỷ thần từ Nam Ra Bắc. Trong tám năm lao động khổ sai, cái chết luôn luôn rập rình đó, tôi vẫn bám lấy ngòi bút “làm thơ chui”, giấu diếm, cất giữ trong đầu.  Nhờ đó, ra khỏi tù, ra hải ngoại tôi in tập thơ “Tiếng Hờn Chiến Mã” 1996, tái bản năm 2002, với hai thi phẩm khác: “Về Lối Đi Xưa” 1999 và “Tiếng Hót Loài Chim Di” 2003.

Sang Mỹ chưa được bao lâu, tôi sinh hoạt với Thi Đàn Lạc Việt của nhà thơ Dương Huệ Anh, biên tập, viết tựa tuyển tập “Một Phía Trời Thơ” 1995, cộng tác với tờ Dân Ta bên Texas, làm chủ bút tờ Độc Lập ở bang Georgia. Gửi bài và cộng tác với các báo Chánh Đạo của GS Nguyên Trung, Việt Nam nhật báo, Sài Gòn Nhỏ, rồi cộng tác lâu dài với Thời Báo, trang Văn Học Nghệ Thuật Cội Nguồn của nhà báo Vũ Bình Nghi ở California từ năm 1998 đến 2015, khi tờ báo tự đình bản; đồng thời sinh hoạt với CSTV Cội Nguồn và tạp chí Nguồn cho tới hôm nay.

NĂM.

ĐẶT TÊN ĐỨA CON TINH THẦN

Đặt tựa cho một bài viết, đặt tên cho một tác phẩm, có khi cũng là một điều trăn trở. Tập Bút Ký Tự Truyện Nửa Thế Kỷ Việt Nam khi đến tay bạn đọc, có mấy nhận xét về tựa đề quyển sách. Một cựu Luật sư/ nhà văn, khi nhận quyển sách tôi ký tặng, ông buột miệng: “Nửa Thế Kỷ Việt Nam mà chỉ có bằng này thôi à”! Nhưng sau khi đọc, trong một bài nhận định tác phẩm, ông đã nêu ra một số ý kiến tích cực: “Nửa Thế kỷ Việt Nam” của tác giả Song Nhị rõ rệt là một đóng góp rất giá trị cho những ai muốn tìm hiểu về cái thời đại nhiễu nhương của dân tộc chúng ta trong suốt nửa thế kỷ qua.... tác giả đã cống hiến cho bạn đọc một tác phẩm biên soạn rất công phu, gọn gàng chu đáo, mà lại hết sức trung thực…”.

Và một nhà thơ, thân hữu lâu năm trong sinh hoạt Cội Nguồn, sau khi nhận được quyển sách tôi gửi tặng đã viết thư gửi cho tôi qua bưu điện, với nhận xét (khi chưa đọc) mà cho rằng cái tựa “rộng lớn quá, to tát quá …”,  nhưng sau khi đọc một hai chương đầu, nhà thơ này đã viết cho tôi ý kiến nhận định:

“… Chương đoạn này như tôi đã nói, chỉ mới là phần dạo đầu của một nhạc khúc đại bi thiết của “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” đã hấp dẫn đến vậy, trung thực đến vậy, còn nói chi đến toàn bộ tác phẩm... Tôi tin chắc đây là một pho tài liệu hiếm, quý, có giá trị vĩnh cửu sẽ giúp các nhà viết sử và và các thế hệ mai hậu thật nhiều…”.

Tôi suy nghĩ và dè dặt khi đặt tên cho quyển sách này: “Năm Mươi Năm Cầm Bút”, tựa đề có “rộng lớn quá, to tát quá…” không?.

Đặt tựa cho một tác phẩm, có những tác giả căn cứ vào nội dung, hay dựa vào một sự kiện, một biến cố đáng nhớ – Nhã Ca/ Giải Khăn Sô Cho Huế. Có tác giả lấy một giai đoạn lịch sử làm dấu mốc: “Bên giòng Lịch Sử” 1940-1965/ LM Cao Văn Luận. Có tác giả nhằm bày tỏ tâm tư của chính mình: Nguyễn Mạnh Côn/ “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử”. Cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương đặt tựa cho một tập hồi ức: “Ta Đã Làm Chi Đời Ta” v.v…

Năm 2010, trên một tấm poster do một nhóm Sinh viên đại học San Francisco thực hiện, nhằm quảng bá cho buổi RMS quyển Nửa Thế Kỷ Việt Nam tại San Jose, có ghi dòng chữ: “Celebrating 45 years of Song Nhi’s Writing Career”. Chính chi tiết này đã là cảm hứng cho tôi lấy tựa đề “Năm Mươi Năm Cầm Bút”.

Tôi nghĩ, cầm bút cũng như người nông dân cầm cày, người thợ nề cầm bai, người họa sĩ cầm cọ, tất cả để nói lên công việc làm của mỗi ngành nghề.

Cầm bút là việc làm của một nhà văn. Thực ra, khi viết, tôi không có ý nghĩ viết để trở thành nhà văn, hay để được người ta gọi mình như thế. Tôi không sống bằng nghề viết văn. Tôi viết văn, làm thơ như một nhu cầu tiêu khiển, do sự thôi thúc từ những sự việc luẩn quẩn trải qua trong đời, muốn được nói ra, viết ra.

Trong tác phẩm này có những bài viết từ năm 1965 còn tìm lại được. Phần lớn bài viết trước năm 1975, sau cuộc biển dâu 30 tháng Tư  đã hoàn toàn bị thất lạc.

Tôi không muốn và cũng không thể kể ra hết được quá trình viết lách từ năm 1965 đến nay. Ngoài ba tập thơ trước năm 1975, với ba tập thơ tại hải ngoại và ba tác phẩm: Lưu Dân Thi Thoại (biên khảo, viết chung với nhà văn Diên Nghị), quyển Nửa Thế Kỷ Việt Nam và mới đây là quyển Lời Rao Giảng Của Thơ… thì đây là quyển văn thứ tư, gồm những bài tôi gom góp được in thành sách như một tặng phẩm tinh thần cho… chính mình và cho những độc giả yêu mến văn chương chữ nghĩa.

Nội dung tác phẩm này là ký ức và kỷ niệm, cho nên,   trước khi đi vào các chương đoạn, tôi quyết định mở đầu với những bài trao đổi, qua các cuộc phỏng vấn lien quan đến những tham dự của chính mình trên những chặng đường đi qua. Trước nhất là bài phỏng vấn của Sinh Viên Julie Hoài Hương Phạm về chiến tranh Việt Nam cho luận án sử học của cô. Julie Phạm sau khi tốt nghiệp là GS Sử học tại đại học Berkeley.

Nhân đây tôi xin cáo lỗi với các văn nghệ sĩ từng dành cho tôi những cuộc bút vấn và phỏng vấn thu âm, mà nay không còn lưu giữ được để ghi lại: Bài trả lời phỏng vấn của Nhà văn Diệu Tần trên Việt Nam Nhật báo năm 1996, hai chương trình giới thiệu thơ Song Nhị Tiếng Hờn Chiến Mã và Về Lối Đi Xưa trên đài VOA năm 2004, và các cuộc phỏng vấn của Radio VN Hải Ngoại, đài phát thanh Việt Nam, Texas, những cuộc phỏng vấn của SBTN, của hệ thống Quê Hương Media, San Jose.
Có 78 kỳ đọc truyện, giới thiệu tác phẩm Nửa Thế Kỷ Việt Nam do cô Đoan Trang, Giám đốc hệ thống truyền thông (TV/Radio) Quê Hương đọc là tài liệu quý tôi còn lưu giữ. Nhân đây xin được gởi lời cảm ơn tới cô Đoan Trang… 

Sau cùng, khi nhớ lại biến cố tai ương 30- 4- 1975, sau một cuộc đổi đời thê thảm, tàn bạo ập xuống thân phận hàng triệu con người, trong số có mình, không thể ngờ 40 năm sau tôi còn hiện diện bên cạnh ấn phẩm văn chương này. Đó là điều tôi lấy làm hài lòng với số mệnh, sau những chặng đời, cho một lần để sống và cho một lần để chết.

Song Nhị/  8-2015

-------------
(*) Nhóm “Nồi Niêu Soong Chảo” một thời làm nổi đình nổi đám trên nhật báo Hòa Bình của LM Trần Du, tại Sài Gòn, Năm 1972 được móc nối về cộng tác với báo chính quyền.

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...