Saturday, August 25, 2012

THƠ & TÌNH


Với đề tài này bạn nhìn thấy hai vế: Thơ và Tình. Trước hết nói về Thơ: Thơ là sự thăng hoa tuyệt đỉnh của cảm xúc, tư tưởng và ngôn ngữ. Thơ là một nghệ thuật riêng biệt của văn chương. Ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ riêng biệt, đi kèm với cảm xúc của người làm thơ mà người ta thường gọi là thiên phú.

Cụ Bùi Kỷ cho rằng Thơ là phần kết tụ của khí hạo nhiên, một thứ hạo khí thuộc về phần hình nhi thượng của tạo hóa, để rồi từ đó đã tuôn trào ra đầu ngọn bút trước những cảnh vật thiên nhiên cũng như trước những cảm xúc của con người như khóc, như cười, như say như tỉnh, như bực dọc, như hả hê, như nhớ nhung, như khuây khỏa.

Người thời nay, như Mai Thảo thì lại nhận định : “Chỉ thơ, thơ mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương”. 

Học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần sau một đời người miệt mài với chữ nghĩa, đọc, viết và nghiên cứu văn học cuối đời đã đưa ra kết luận: “Thi sĩ các anh là con cưng của thượng đế. Rút cục chỉ có Thơ.”

Còn nữa, còn nhiều lắm nhận định của những danh nhân, học giả Đông Tây dành cho thơ. Xin dừng lại đây để nói về Tình. Tình đây là Tình Yêu. Theo như định nghĩa có nhuốm mùi triết học: Tình Yêu là sự tra vấn, kiếm tìm, săn đuổi để chụp bắt một cái gì như có như không; như có đó mà không có đó, rất thật mà không có thật; không có bây giờ nhưng có thể có ở ngày mai, hoặc có ở lúc này nhưng ngày mai không chắc sẽ có. Và vì vậy mà tình yêu như một ngọn sóng cuốn hút con người hết thế hệ này đến thế hệ khác, cứ thế tiếp tục một cuộc săn đuổi kiếm tìm bất tận.

Xuân Diệu khi viết bài thơ với câu mở đầu: “Yêu là chết đi trong lòng một ít” tuyệt nhiên không phải là một định nghĩa về tình yêu như nhiều người vẫn gán ghép, mà là do cảm xúc nội tại về sự xao xuyến của cõi lòng về một mối tình, một đối tượng đang còn săn đuổi, khi chưa đạt được cứu cánh, chưa qua thời kỳ quá độ.

Nguyễn Bính khi làm bài thơ Người Hàng Xóm với bốn câu mở đầu:
                       
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi                     
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn             
Hai người sống giữa cô đơn               
Nàng như cũng có mối buồn giống tôi

đó là lúc thoát thần thú nhận một cảm xúc trào dâng để bao nhiêu ý tưởng suy nghĩ trào ra thành một “bản tự thuật” của trái tim thi sĩ.
                       
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi                  
Tôi buồn tự hỏi: “hay tôi yêu nàng?”

Chính cái hư hư thực thực của cảm giác có không, không có của nhu cầu tâm lý ấy mà những khoảnh khắc bất chợt của cảm xúc bùng vỡ bất ngờ làm cho Thơ vụt hiện. Cùng với cảm xúc bùng vỡ, ngôn ngữ cũng bất thần xuất hiện, ăn khớp nhịp nhàng với rung cảm để ý tưởng tuôn trào thành thơ. Những ngôn ngữ bộc phát lúc bấy giờ có khi vô nghĩa với người ngoại cuộc nhưng lại rất tâm đắc với chủ thể của mối rung động phát ra thành Thơ. Tất cả ngôn ngữ, cảm xúc đó chỉ thể hiện trong cái khoảnh khắc rung động ấy thôi, sau đó là hết, là mất hẳn. Sau đó nếu có cố vận dụng cách nào đi nữa thì cũng không bao giờ tái tạo được cái cảm giác kỳ ảo đi kèm với những ngôn ngữ tuyệt diệu kia.

Người thơ khi đắm chìm trong trạng huống tâm tư như thế, do những rung cảm của con tim; do những trầm tư về một cảnh vật, một con người, về những đoạn đời từng trải, trong một khoảnh khắc cái âm-ỉ kia cuồn cuộn như cơn gió xoáy để bật thành tiếng, và thơ hiện hữu như một hóa giải, như một đáp ứng tiếng réo gọi thôi thúc của tâm tư.

Đến đây xin mời bạn thưởng thức một bài thơ vừa được viết trong một cung cách hình như thế.

Góc Phố NàY Mỗi Đêm

Cảm ơn em cho ta đề tài
Để làm những bài thơ dập dồn cảm xúc
Những bài thơ không chờ người đọc
Khi viết xong đem thả giữa trời

Cảm ơn em những buổi sớm mai
Ra khỏi cửa tự thấy mình ngớ ngẩn
Như chiếc xe lạc đường quanh quẩn
Chạy lòng vòng không tới ngõ nhà em

Tôi trở về nghe nhịp đập con tim
Nhìn thấu suốt con đường lên phố núi
Tôi hối hả chạy quanh dòng suối
Kiếm tìm em  ... gặp kẻ vô tình
Rồi trở về hỏi lại con tim
Nghe thỏ thẻ toàn những lời mộng ảo!

Cảm ơn em đã làm nên gió bão
Để tôi ngồi trần trụi ngó phong ba
Cảm ơn em vườn cây trái phù sa
Đã bỏ mặc kẻ cơ hàn đói khát
Đã bỏ mặc - gã thâm tình tệ bạc?
Tiếc tiếng xưng em tiếc tiếng gọi mình
Bên cánh rừng em hát với bình minh
Mà quên mất góc phố này mỗi tối

Cảm ơn em - không có gì để nói         
Mà còn rất nhiều không thể bỏ quên
Tôi trở về ngồi suốt sáng thâu đêm
Tưởng như thể chuyện long trời lở đất
Cảm ơn em ... đành một lần lỡ mất!

song nhị
(trích Thơ và Những Cảm Xúc của Thơ)




Wednesday, August 8, 2012

ĐÁNH







Những dòng phẫn uất dưới đây của Hồ Ngọc Nhuận, người nhiều năm là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, phản ánh tâm trạng của người dân chúng ta trước sự ngang ngược của bọn bành trướng Bắc Kinh. Chúng ta yêu chuộng hoà bình và phải khôn khéo để giữ hoà bình. Nhưng điều đó không có nghĩa là quỳ gối.
Cần phải đọc Hồ Ngọc Nhuận trong tinh thần ấy. Phải thổi bùng tinh thần ái quốc trong dân ta, để khi cần muôn người như một, cùng hô một tiếng: ĐÁNH!!! Như tinh thần quyết chiến của Hội nghị Diên Hồng xưa kia.

Bauxite Việt Nam

Tôi nghĩ tôi không là quá khích. Nhưng nếu có ai nghĩ vậy thì cứ nói. Tôi không giành nói một mình. Tôi chỉ là một tiếng nói trong mấy chục triệu đồng bào, trong toàn thể đồng bào không chấp nhận chịu nhục. Toàn dân ai cũng có tiếng nói và muốn nói. Và tiếng nói chung sau cùng tôi tin chắc là “ĐÁNH”.

Đánh cách nào,khi chúng có nanh nguyên tử? Và đủ thứ. Và tất cả. Với lòng lang sói và cái nọc con rắn độc? Còn ta thì như tay không. Lại không đầy một phần mười dân số của chúng.

Tôi thưa: Ai có gì đánh nấy. Tay không thì đánh tay không. Ông cha ta xưa cũng vậy. Ta với chúng luôn như trứng chọi đá, như chấu đá xe. Nhưng khỏi cần nhắc, chúng cũng biết ông cha chúng đã bị ông cha ta đánh đuổi chạy về nước bao nhiêu lần…

Với lại dân Trung Quốc đâu phải ai cũng không biết điều. Một phần không nhỏ còn là nạn nhân của bao chánh sách bạo ngược của phe nhóm độc tôn bá chủ. Bọn cầm quyền Bắc Kinh tưởng có thể dùng mánh cũ mèm, gây hấn với bên ngoài, để dễ bề đàn áp lửa hận bên trong. Nhưng chúng đừng hòng: Ta chấp nhận thách đố là để cứu nguy cho ta, mà cũng để những người “dân Trung Quốc biết điều” thừa cơ nổi dậy tự giải phóng. Và rồi bọn cầm quyền Bắc Kinh sẽ phải cúi đầu tạ lỗi trước nhân dân, nhưtên thủ tướng chết họ Chu đã phải cúi đầu xin lỗi các oan hồn tử sĩ Trung Quốc đã chết ức ở gò Đống Đa ngày nào, vì buộc phải tuân lệnh những tên trùm bành trướng cũ.

ĐÁNH!!!
Lại có câu hỏi: Sao không tìm cách nói chuyện phải quấy trước, rồi đánh cũng chưa muộn?
Mỗi người mỗi cách đánh, tôi không cản. Nhưng khi nhà cầm quyền Bắc Kinh cứ vênh vênh lè cái “lưỡi bò” gớm ghiếc của nó ra để dọa hết người này đến người khác thì nói chuyện với nó chính là nói chuyện với cái đầu bò về cái lưỡi bò.

Nhưng đánh lúc nào?
Chậm nhất là khi bị chúng đánh. Nghĩa là ngay bây giờ.
Bởi chúng đã ngoạm hết Hoàng Sa của chúng ta rồi đó. Và dơ dáy làm bậy ở một số đảo ở Trường Sa. Liên tiếp nhiều đợt chận bắt ngư dân của chúng ta trên chính vùng biển của chúng ta. Và đang tìm cách cướp hết tài nguyên các thứ ở Biển Đông của ta và các nước…
Lại còn đạo quân thứ 5 của chúng sờ sờ ngay trong nhà của chúng ta nữa. Không đánh để chúng đặt mìn phá nát ruộng đồng sông núi, bàn thờ, mồ mả tổ tiên, và cái nôi con đỏ của chúng ta sao? Lại còn những kẻ vô tình hay cố ý nối giáo cho chúng nữa…

ĐÁNH!!!
Chỉ có răng hay tay không cũng đánh. Và ngay bây giờ.
Có mấy thứ NÓI KHÔNG với chúng cũng là ĐÁNH: KHÔNG mua hàng Trung Quốc, KHÔNG bán hàng Trung Quốc, KHÔNG đi chơi Trung Quốc, KHÔNG xuất bất cứ thứ gì sang Trung Quốc, KHÔNG đến các phòng khám bệnh của Trung Quốc, KHÔNG qua lại làm ăn dưới bất cứ hình thức nào với Trung Quốc, KHÔNG lấy chồng Trung Quốc. Và còn nhiều cái KHÔNG khác nữa…Biết NÓI KHÔNG VỚI Trung Quốc TỨC LÀ ĐÁNH rồi đó. Mà ai ai cũng đánh, mọi người già trẻ gái trai lớn nhỏ đều đánh. Không chờ ai ra lệnh. Không cần ai cho phép. Không sợ ai ngăn. Có ngăn cũng không sợ. Còn kẻ nào đã lỡ vì hám lợi trước mắt mà bán ruộng, bán vườn, bán hoa màu, bán mặt nước…cho Trung Quốc thì tạm thời hãy để lương tâm họ xử. Nhưng ít nhất là truy cho ra những kẻ đã thả cửa cho lũ giặc vào nhà để tối thiểu nọc ra mà cho mấy roi vô đít. Và kẻ nào chần chờ, nhút nhát, chưa nói đếncó mưu mô toan tính gì, bất cứ ở đâu, cấp nào, thì ít nhất, trong nhất thời, là đẩy ra sau lưng. Sức dân là sức trời, mọi người nên nhớ vậy . /.

Hồ Ngọc Nhuận

* * *

Wednesday, August 1, 2012

Phó Thị Trưởng TP San Jose - Madison Nguyễn và quyển tự truyện “VIỆT NAM ĐẾN MỸ: HÀNH TRÌNH MƠ ƯỚC”




Đây là tác phẩm đầu tay viết bằng tiếng Việt của một tác giả ở vào lứa tuổi “tam thập nhi lập”. Và nếu nhìn lại ba mươi ba (33) năm về trước thì đây là quyển hồi ký của một cô bé năm tuổi, cách đây ba mươi ba năm chập chững bước vào một trường mẫu giáo Hoa Kỳ ở tiểu bang Arizona. Chỉ riêng điều này, quyển hồi ký “Việt Nam Đến Mỹ” đã là một thành tựu ngoạn mục trên “Hành Trình Mơ Ước” của Madison Nguyễn.

Cầm quyển sách trên tay, nhìn trang bìa, người đọc cảm nhận được cái vẻ rạng rỡ của hành trình mơ ước qua bức ảnh chân dung tác giả đặt trước hậu cảnh Tòa Thị Chính thành phố San Jose.

Quyển sách dày chưa tới 150 trang, như quãng đời chưa đủ bề dày của một cô gái mới thành gia thất, nhưng những thành tựu của một nữ sinh viên gốc Việt, tốt nghiệp cao học từ đại học Chicago đến bà Phó Thị Trưởng thành phố San Jose sau một chuỗi dài đầy hệ lụy trên bước đường dấn thân vào chính trường, quyển hồi ký có một giá trị tinh thần nhất định, cả về phương diện văn học lẫn lịch sử của cộng đồng tỵ nạn. 
Quyển sách gồm có bảy (7) chương. Trang đầu là lời giới thiệu của ông Norman Y. Mineta, [cựu Bộ trưởng Giao thông Hoa Kỳ, dưới thời Tổng Thống George W. Bush, cựu Bộ Trưởng Bộ Thương Mại Hoa Kỳ dưới thời Tổng Thống William Jeferson Clinton, cựu Dân Biểu Liên Bang và cựu Thị Trưởng Thành Phố San Jose].
Sau Lời giới thiệu là “Lời Mở Đầu”,  tác giả dành trọn bốn trang sách chỉ để bộc bạch tâm sự về “trận chiến to lớn” bởi một cái tên “little” và không “little”.  Lời mở đầu đó như sau:

“Hơn một ngàn người Mỹ gốc Việt ngồi đầy phòng họp Hội đồng Thành phố, họ hiện diện ở khắp tòa nhà mái tròn Rotunda, trong các phòng họp của các văn phòng của thành phố, và kéo tận phía trước Tòa Thị chính, tất cả bày tỏ sự giận dữ đối với tôi bởi vì tôi đã chọn tên cho khu thương mại là “Saigon Business District” thay vì tên gọi “Little Saigon”. Một người đàn ông gốc Việt đã tuyệt thực cả tháng để phản đối việc bỏ mất chữ “little”. Những hội đoàn khác nhau tổ chức cuộc vận động bãi nhiệm.
Nhiều người bạn ngưng gọi điện thoại cho tôi. Nhiều người chủ tiệm quay lưng khi tôi bước vào. Những người ủng hộ tôi trở nên ngần ngại khi đứng bên cạnh tôi. Tôi bị gán cái nhãn là kẻ phản bội, một kẻ thù, và thậm chí cho tôi là một người Cộng sản bởi một số người có động cơ rất đáng nghi ngờ. Đa số không hiểu rõ câu chuyện thật; hoặc không hiểu hết vấn đề tranh cãi là gì. Sự thật là tôi chỉ cố gắng để đại diện cho tất cả mọi cư dân trong khu vực của mình đại diện một cách ân cần nhất bằng cách tuân theo các quy tắc thích hợp.
Thêm một sự thật khác nữa là khi toàn thể diễn biến sự kiện bắt đầu nổi lên, tôi đã không tiên liệu được hết đang có một cơn giông bão sẽ kéo đến. Đơn giản là tôi chỉ thực hiện công việc với hết sức khả năng và tấm lòng của mình.
Nhưng làm sao tôi có thể thuyết phục họ về việc này, khi họ đã tập họp thành một cuộc náo động lớn? Tôi phải nói gì để họ hiểu rằng chúng ta từng là một khối? Rằng cộng đồng chúng ta đang bị chia rẽ, đang tiêu phí cái năng lực từ công việc chúng ta đáng lẽ nên dùng để xây dựng cho cộng đồng mình an toàn hơn, sạch sẽ hơn và thịnh vượng hơn?
Bằng cách nào tôi có thể trình bày cho họ biết rằng chúng ta cần phải chung sức để làm các trường học tốt hơn, cho các thế hệ kế tiếp có cuộc sống mà chúng ta đã phấn đấu vất vả để chúng được thành đạt? Để xây dựng một cộng đồng pha trộn những điều tốt nhất của Việt Nam và Hoa Kỳ. Không phải chỉ dành riêng cho người Việt Nam hay chỉ dành riêng cho người Mỹ, mà nên trở thành một người Mỹ với nền tảng văn hóa Việt Nam. Để tạo nên một nền văn hóa mới có nguồn gốc từ hai phía của thế giới, cộng với tự do vừa tìm thấy được để vẽ ra hai nền văn hóa vừa truyền thống, vừa hiện đại hỗ trợ xen kẽ cho nhau.
Sự xung đột trong cộng đồng này đang tàn phá khả năng đem đến điều tốt lành cho mọi người xung quanh ta. Nó làm cạn kiệt thời giờ và lòng nhiệt tình của mọi người mà đáng lẽ chúng ta nên dùng để cải thiện trường học, giúp đỡ trẻ em, và hỗ trợ cho mọi gia đình đang chật vật kiếm sống. Thay vì làm điều đó, một số thành viên trong cộng đồng chúng ta đã tập trung vào một vấn đề không có tính chất gây dựng cho sự năng động của mình nhưng trái lại mình còn làm giảm thiểu sự hiệu quả của công tác phát triển cộng đồng.
Làm sao tôi có thể nói với họ rằng trận chiến to lớn này vì một chuyện đặt tên đã và đang chia rẽ đến sự ổn định của cộng đồng Việt Nam và ảnh hưởng trách nhiệm của tôi trong vị trí của một người Nghị viên? Đối với người ngoài, cộng đồng Việt Nam đã bị chia rẽ cho một vấn đề có tính chất thật bình thường và tôi là nguyên nhân chính gây ra sự chia rẽ này. Cuộc tranh cãi xoay quanh một cái tên đã trở thành một biến động gây ra nhiều hậu quả tai hại cho cộng đồng Việt nam (mọi người sẽ nhớ mãi cuộc tranh cãi này) và với cá nhân tôi bởi vì tôi không thể hoà giải với các phe phái. Có thể vì lý do đó mà những rạn nứt trong cộng đồng còn hiện hữu cho tới ngày nay.
Vì vậy nhiệm vụ của tôi là kể lại câu chuyện không chỉ về một Nghị viên thành phố mà còn là hình ảnh của sắc dân Việt Nam, sống gần một thế hệ ở đất nước Hoa Kỳ và họ đang vật lộn để tạo nên một hướng đi trong thế giới mới và trở thành một lực lượng chính trị thật sự tại tiểu bang California và trên khắp Hoa Kỳ. Trong hoàn cảnh trên, tôi chỉ là một cá nhân, tôi cảm thấy mình đang ở trong một vị trí đặc biệt, và tôi muốn dùng vị trí của mình để giúp cả hai phía mà tôi đều có dự phần. Tôi muốn làm người đại diện tốt hơn cho những người Việt Nam đã từ lâu không có người nói lên nguyện vọng chính đáng của họ trên đất nước này, và tôi muốn quảng bá cho toàn thể cư dân của mình rằng tôi đại diện cho họ để làm cho thành phố San Jose, thành phố lớn thứ 10 của Hoa Kỳ trở thành một nơi sinh sống tốt đẹp hơn để sống, làm việc và gây dựng gia đình.” (hết trích). Sau Lời Mở đầu:

Chương 1- “Cuộc Hành Trình Đến Nước Mỹ”, bắt đầu vào một đêm khuya cuối năm 1979 khi ba mẹ của tác giả tổ chức cuộc vượt biên để “trốn thoát sự sợ hãi và những thảm kịch kế tiếp”, để thoát cảnh “suốt đời nghèo đói và bị áp bức”. Tác giả cho biết thân phụ cô đã từng phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa 5 năm. Năm 1973 giải ngũ vì bị thương ở bụng và chân. Cuộc vượt thoát thành công. Gia đình thuyền nhân này từ trại Bataan, Phi Luật Tân đến Arizona, rồi từ Arizona đến Modesto, California trong hành trình mơ ước của cô bé Madison Nguyễn, lúc này đã đến tuổi 14.

Chương 2- “Công Bằng Xã Hội”: là ký ức của tác giả về hai vụ việc gây ấn tượng mạnh mẽ đã giúp cô gái 14 tuổi “đi làm mướn” hái trái cây cho một nông trại xác định được điều cô muốn và phải làm cho cuộc đời mình. Vụ thứ nhất xẩy ra khi người đốc công đã có lời nói và hành vi xúc phạm nặng nề, mang tính miệt thị, phân biệt chủng tộc nhắm vào ba của cô và tập thể công nhân da màu. Madison Nguyễn mang theo tâm trạng và ký ức này trong suốt thời kỳ theo học đại học tại California, Santa Cruz University. Có lẽ nhờ động lực tâm lý đó, cô và bảy anh chị em trong nhà đã tốt nghiệp văn bằng Cử nhân sau bốn năm đại học.
Vụ việc thứ hai là sự dấn thân nhiệt tình của Madison khi cô là Ủy Viên Giáo dục Học khu Franklin McKinley cùng với hơn 300 đồng hương Việt Nam ở San Jose đòi hỏi Sở Cảnh Sát thành phố phải điều tra và giải quyết thỏa đáng vụ một cảnh sát viên San Jose bắn chết cô Trần Thị Bích Câu.

Chương 3- “Tranh Cãi Qua Chuyện Đặt Tên”, tựa đề này nghe có vẻ nhẹ nhàng, hiền lành, nhưng toàn bộ chương này (gồm 32 trang sách) cùng với “lời mở đầu” là phần mô tả và trình bày tự sự của tác giả về những tháng ngày sôi động đã biến cô Nghị viên trẻ trung năng động của cộng đồng Việt Nam trở thành một kẻ “cô đơn nhất trên thế giới”, trong những ngày phiền muộn và trống trải nhất của cô. Chương này gay cấn nhất, nhiều sự thật được phô bày. Phải đọc từng dòng, từng trang mới hiểu hết được những ngõ ngách của “cơn bão Little Saigon” đã từng gây chia rẽ cộng đồng người Mỹ gốc Việt, chia rẽ giữa bạn bè và chia rẽ ngay cả trong gia đình, thân thuộc!!

Chương 4- “Ứng Cử Viên Địa Phương Và Du Học Sinh” nội dung tập trung vào đề tài cuộc hôn nhân giữa du học sinh Terry và cô nghị viên gốc Việt Madison Nguyễn. Những thông tin cố ý sai lệch, những cáo buộc, chụp mũ vu khống ác độc gán cho cặp vợ chồng này là cộng sản, rằng đám cưới mời 40 viên chức cao cấp từ Việt Nam sang tham dự… Sự thật hôn lễ được cử hành đơn giản với bà con và bạn bè tại sân vườn sau của gia đình một người bạn thân, thay vì tổ chức tại một nhà hàng sang trọng, không đủ chỗ cho ít nhất hơn 1000 khách.

Chương 5- “Sài Gòn hay Little Sài Gòn”, vẫn là đề tài căng thẳng và nhức nhối cho tất cả mọi phía liên quan: - Một là Nghị viên Madison, người bị phản đối và lên án; - Hai là nhóm người có khuynh hướng tranh đấu sôi nổi đòi tên Little Sài Gòn; và - Ba là khối đa số thầm lặng ủng hộ Madison Nguyễn, không chấp nhận tình trạng ồn ào, gây chia rẽ... Với họ, “Little Sài Gòn” hay không “Little Sài Gòn” không là vấn đề! Cuộc tranh cãi mau chóng trở thành một đề tài lan rộng trong giới truyền thông khắp thế giới.
Chương 6- “Bãi Nhiệm”, là nỗ lực tiếp theo của phía đòi cái tên “Little Sài Gòn” mà “chỉ đơn giản là một hình thức trả thù”. Trong chương này, tác giả kể lại cảm xúc mãnh liệt khi thân phụ cô đến tham dự buổi họp báo. Sau lời phát biểu, ông đã trưng ra lá cờ vàng ba sọc đỏ với hai chứng minh thư cựu quân nhân QL/VNCH và chứng minh thư giải ngũ vì bị thương trong khi chiến đấu mà ông đã mang theo trên chuyến tàu vượt biên.
Cuộc chống bãi nhiệm đã được hầu hết các vị dân cử và các chức sắc liên bang cũng như tiểu bang Califronia ủng hộ. Cuối cùng bão tố đã qua, sự thật đã được khẳng định qua lá phiếu của cử tri đem lại chiến thắng cho Nghị viên Madison Nguyễn tiếp tục hành trình mơ ước...

Chương 7- “Giấc Mơ Mỹ Quốc”, đây là phần tự sự của tác giả sau khi trời quang mây tạnh, đám mây đen chính trị vần vũ đã loãng tan và bầu trời đã trở lại màu hồng quang đãng trong ngày tuyên thệ nhậm chức Phó Thị Trưởng T/P San Jose – ngày 25-01-2011 tại tòa Thị chiùnh. Đó là thời khắc mà tác giả thực sự bước lên đài danh vọng Giấc Mơ Mỹ Quốc của cô.

Madison Nguyễn đã dành chương 7 cho phần kết của tác phẩm. Toàn bộ nội dung chương này tác giả đã đúc kết, rút tỉa những bài học trong đau đớn lẫn vinh quang về cách hành xử, đối phó với mọi cảnh huống của cuộc sống. Những bài học ấy không phải chỉ riêng của Madison mà là bài học của tất cả mọi người có tâm thành, biết tôn trọng sự thật, lẽ phải và cống hiến hết mình để thực hiện giấc mơ Mỹ quốc mà Madison Nguyễn nhìn lại từ nơi chốn đã ra đi và nơi cô đang đứng tuyên thệ trước Quốc kỳ nước Mỹ và lá cờ vàng Quốc Gia Việt Nam.
“Tôi đã đến quốc gia này để chạy trốn khỏi chế độ Cộng sản ở Việt Nam…” Lời khẳng định này là một phủ nhận những vu cáo, chụp mũ ác độc trong cơn bão “Recall”.

Về hình thức, tác phẩm được viết dưới dạng hồi ức tự truyện pha lẫn giãi bày tâm tình tự sự. Mạch văn trong sáng, giọng văn nhẹ nhàng, thẳng thắn mà chân thực dễ gây cảm tình với độc giả. Người đọc dù “phía này hay phía kia” đều thấy có mình can dự trong một biến động đã lắng chìm.
Ngoài ra, quyển sách còn dành đăng 22 trang hình màu về những quan hệ, sinh hoạt của tác giả trong đó có những tấm ảnh tác giả chụp với Tổng Thống Barack Obama, cựu T.T Bill Clinton, Ngoại trưởng Hillary, Nữ Dân biểu Liên bang, cựu Chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ bà Nancy Pelosi, DB Liên bang Michael Honda và các giới chức cao cấp khác.
Trang bìa sau là phần trích lời giới thiệu của ông Robert Kieve, Phụ tá đặc biệt văn phòng Nhà Trắng và là người viết văn cho TT Dwight Eisenhower. Ông Chuck Reed, Thị trưởng TP San Jose và Giáo sư Tiến Sĩ Kiều Linh, Đại học UC David, California.

SONG NHỊ




Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...