Saturday, July 22, 2017

NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM





Bút Ký . Tự Truyện

Half A Century of Vietnam
Personal Narratives v Third Edition

CỘI NGUỒN 2017
Printed in The United States of America
ISBN  : 978 - 1543189773

        
MỤC LỤC
Xiem Mục Lục chi tiết cuối sách

Vào Tập/Thay Lời Tựa.  ................................................................................. trang 07
Giới thiệu Tác phẩm  ................................ ...................................................... trang 11
Chương I ................. …...................... Giữa Một Miền Quê Hiền Hòa tr. 17
Chương II ........................................... Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) tr.28

Chương III .............. Bố tôi Một Ngày Vào Tù CS Cũng Không tr. 70
Chương IV ........................................................... Người Việt trên xứ Lào tr. 82
Chương V ............................        Miền Nam - Đệ I & Đệ II VNCH tr. 85
Chương VI ...............................  Miền Nam Đất Lành Bến Đậu  tr. 99
Chương VII ................................................... Ngày Bắt Đầu Cuộc Đời tr. 104 
Chương VIII      Đặc san Máu Lửa/ Chi bộ đảng Dân Chủ tr. 132
Chương IX           Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 tr.151
Chương X ............................  Miền Nam, Cơn Lũ Nghịch Thường tr. 158
Chương XI ...................... Bản Án Ba Năm Tập Trung Cải Tạo tr. 194
Chương XII ...................................................... Đoàn chiến Mã và Hành Trình
           ................................................................................... Lưu Đày Biệt Xứ tr. 222
Chương XIII .......................................................... Bùi Đình Thi Chiêm nghiệm
                   ........................................ Nhân duyên  Nghiệp quả tr. 273
Chương  XIV ................................................................Làm Thơ trong Tù tr. 295
Chương XV ................................................................................... Biểu tình tuyệt thực
      ...................................................................................... Rừng Vang tiếng hát tr. 302
Chương XVI ................................. Những Cảnh Huống Trong Tù tr. 328
Chương XVII .............................................................  Châu về Hiệp Phố tr. 359
Chương XVIII .............................................................. Hy vọng trong màn đêm
  .......................................................................  Ánh sáng cuối đường hầm tr. 408
Chương XIX ............................................ Từ cửa Ải đến cửa Quyền tr. 431
Chương XX ..........................................Cuộc trốn chạy vĩ đại bi thảm trong
                     ...................................................................... lịch sử dân tộc tr. 455
Chương  XXI ....................................................  Thử tìm một kết luận tr. 478
Phụ Lục .............................................................................................................................. tr. 486


VÀO TẬP
THAY LỜI TỰA

Tôi đã viết và đã xóa từng dòng. Tôi đã viết và đã xóa  từng trang. Tôi đã xóa bỏ nhiều lần như vậy. Một bài viết ngắn tưởng đã là đoạn mở đầu cho một quyển sách có nhiều tiết, nhiều chương nhưng rồi để đó mãi cho tới hôm nay... đã chẵn mười năm!

Mười năm góp nhặt, suy nghĩ, đắn đo, để một lúc hứng khởi, tôi đặt tay vào bàn phím, gõ tiếp. Những dòng chữ giàn ra trước mắt, chập chờn từng sự kiện từ quá khứ đeo đuổi đến hôm nay. Những sự việc, những con người “đi theo tôi”, tôi kể lại có khi thật là cá biệt. Nhưng những cá biệt, tản mạn đó lại tạo nên một bố cục chặt chẽ, sống động, rất thật trên một đường trường lịch sử nửa thế kỷ Việt Nam.

Người xưa kiêng cữ nói về “cái ta”. Quan niệm cũ vẫn coi “cái ta” là cái đáng ghét nhất. Nhưng khi viết, khi kể, nếu không có mình có ta trong câu chuyện, chẳng hóa ra là chuyện vu vơ.

Tôi tự nghĩ ‘ta’ chẳng là cái gì và ‘ta’ chẳng có chi to tát đáng chuyện để mà viết, mà nói. Tôi đem ý nghĩ đó nói với những người thân, bạn hữu và những người hiểu biết những chặng đời trôi nổi của tôi, ai cũng cho rằng thế hệ của tôi không là cái gì, nhưng là những viên cuội giữa dòng lịch sử nước nhà ở những thời kỳ bi tráng nhất, trải dài suốt một đời người. Những gì mắt thấy tai nghe, gom góp lại hôm nay, biết đâu mai kia sẽ giúp các ông đã sống như thế nào.

Mười lăm năm tuổi thế hệ hậu sinh moi tìm được đôi điều hữu ích trong đống bụi thời gian. Tôi viết, những trang sách này, ít ra sẽ là một kỷ vật trao lại cho các thế hệ con cháu sau này biết thời đại cha thơ tôi trên mảnh đất xóm làng chôn nhau cắt rốn. Mười chín năm ly tổ, xa quê, sau khi thoát khỏi vòng tai họa, sống trên phần đất Tự do. Bốn năm ở Lào; mười lăm năm giữa Sài Gòn hoa lệ của miền Nam cho tôi một phần đời thành đạt, mộng đầy hăm hở mai sau...

Nhưng rồi tất cả như giấc mộng Nam Kha. Năm 1975 tôi đi giữa chốn tàn quân, tám năm lưu đày nơi rừng sâu núi thẳm trong các trại tập trung cải tạo. Sau tám năm về lại mái nhà xưa như người khách trọ, thêm mười năm trong xã hội nhà tù, không kém phần khắc nghiệt. Mười tám năm lưu đày trên chính quêhương, dưới xã hội mới – xã hội XHCN. Tôi rời đất nước ra đi chẳng phải vì cơm áo. Từ bao nhiêu đời, người dân Việt dù đói khổ, khó khăn chẳng ai tìm đường bỏ nước ra đi! Thế mà tôi đã ra đi. Hàng triệu người đã ra đi!

Đầu năm Đinh Dậu 1957 (*), cách nay hơn nửa thế kỷ, khi vượt Trường Sơn trốn chạy, một buổi chiều dừng chân trên đỉnh Giăng Màn, ngọn núi cao thứ hai sau Hoàng Liên Sơn, phía trước mặt là xứ Lào, tôi xoay người nhìn về khoảng trời mênh mông, mờ mịt xóm làng, để chợt chùng lòng khi biết mình đã thực sự bỏ lại phía sau một thời tuổi thơ nơi quê cha đất tổ, cơ hồ như đuổi xua, bội bạc...

Bước chân lưu lạc từ Việt sang Lào, từ Lào về Việt, tám năm tù đày lê lết từ Nam ra Bắc, từ Bắc về Nam, định mệnh đẩy đưa, lê chân khắp cùng trời cuối đất – đầu non cuối biển –  trôi giạt đến cuối bờ Thái Bình dương, cách biệt quê nhà nửa vòng trái đất... Giờ đây trên xứ sở quê người, tôi đã đi, đã sống 50 năm phần đời lưu lạc. Hơn hai mươi năm trên quê hương thứ hai này, tôi có một quãng đời đầy đủ mà sao tôi vẫn thấy thiếu, vẫn trống vắng một cái gì... Phải chăng, tôi là viên cuội đã bị từng dòng xoáy thời cuộc chà xát, nhào nặn, lăn lóc, cuốn xô đến tận cuối chân trời, vĩnh viễn cách xa quê hương, cha mẹ, người thân ruột thịt, quá khứ, kỉ niệm và nửa cuộc đời trĩu nặng những vinh nhục của một kiếp nhân sinh.

**
“Nửa Thế Kỷ Việt Nam” không thuần túy là một cuốn hồi ký, cũng không là một tập văn với những tình tiết trước tác hư cấu. Tập sách này là một tập hợp những sự kiện xẩy ra ở những thời gian và không gian khác nhau, trong suốt dọc dài những biến động của đất nước. Tất cả được ghi lại như những thước phim trung thực. Tác giả chỉ làm công việc lượm lặt, gom góp lại
những gì mắt thấy tai nghe, có chính mình can dự.

Quyển sách viết về mình, viết về những sự việc, những con người, mà không hề có chủ ý bêu riếu, chỉ trích; không đem lòng thù hận, không bịa đặt thêm bớt, không cường điệu khen chê. Người viết không có tham vọng trình bày, phân tích, phê bình bản chất những vấn đề lớn, những sự kiện tầm cỡ. Từ lâu đã có những nhà nghiên cứu lịch sử, những cây viết chuyên nghiệp làm công việc này. Ở đây chỉ xin lượm lặt, gom góp lại những sự việc có khi như là tản mạn, riêng tư, nhưng chính những chi tiết rời rạc đó là biểu hiện cụ thể thực chất của vấn đề, đưa tới những biến cố và hậu quả hệ trọng.

Trong sách có những con số, những dữ kiện được trích từ những tài liệu giá trị, khả tín. Trong lần tái bản này chúng tôi đã có hiệu đính nhiều chi tiết, tuy nhiên, vẫn không thể không có những thiếu sót, phiến diện. Rất mong các bậc thức giả và bạn đọc chỉ dẫn để hiệu chính.

Tác giả xin cảm ơn quý thân hữu và bạn đọc đã gọi điện thoại, gửi E-mail cho biết các lỗi chính tả và góp ý về những chi tiết sai lạc. Chúng tôi cũng xin cáo lỗi với các tác giả những bài viết, những tài liệu được trích dẫn trong tập sách này, vì không biết địa chỉ để liên lạc xin phép và gửi sách tặng.

Sau hơn 10 năm kể từ ấn bản lần thứ nhất, (tháng tư năm 2010), và sau ấn bản lần thứ hai, nhiều sự kiện lịch sử các biến cố của nửa thế kỷ vừa qua được thời gian bạch hóa và các văn kiện tối mật liên quan sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào chính trường và cuộc chiến Việt Nam đã được Hoa Kỳ cho giải mật. Nhiều sự thật được phơi bày, nhiều suy đoán mù mờ trước đây và nhiều tin tức, tài liệu sai lạc nay đã được trả lại sự thật.

Trong ấn bản lần thứ ba này, tác phẩm được hiệu chính những sai lạc và thiếu sót trong hai ấn bản lần thứ nhất (4/2010) và lần thứ hai (8/2010). Ngoài ra, ấn bản lần thứ ba (2017) thêm chương V - tiêu đề “Miền Nam Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa” –
một thời kỳ bi tráng của thể chế dân chủ trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Phần phụ lục cuối sách được bổ túc thêm các tài liệu quý như: – Bài viết của Tom Polgar, Trưởng nhiệm sở CIA tại Sàigon trước năm 1975 về kế hoạch di tản bất thành, bỏ lại những thành phần ưu tiên đưa ra khỏi VN. (tr. 526) – Chương trình huấn luyện Biệt Kích ra Bắc và hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt (tr.548), v.v..

Ngoài ra, còn có thêm những sự thật bất ngờ thú vị hé lộ như - Ai ra lệnh đảo chính? - Ai là người giết TT Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu? tr.88) - Trong cải cách ruộng đất số nạn nhân là con số 10.303.004 (mười triệu ba trăm lẻ ba ngàn… ) ? Hay 172.008 người ?? [tr.69-70]

- Sau 30-4-75 có 1,126,000 hay 343,000 tù cải tạo? Con số nào đúng? Theo phân tích của chúng tôi? (tr.535) - LM NGuyễn Hữu Lễ nói gì đằng sau vụ án Bùi Đình Thi? (tr.301) v.v..

 ***

Giới Thiệu Tác Phẩm

LÊ ĐÌNH CAI

NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM NGUỒN SỬ LIỆU HIẾM QUÝ
CHO CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU SỬ HỌC

Năm 1955, nhà văn Song Nhị lúc đó 15 tuổi đã phải chứng kiến những giờ phút kinh hoàng của hai bản án tử hình đầu tiên trong đợt phát động Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở quê ông (Hương Khê, Hà Tĩnh). Những gì ông viết về nạn đói Ất Dậu năm xưa và nhất là những điều ông đã chứng kiến trong chiến dịch CCRĐ đã được thể hiện lại hết sức sống động, thương cảm, khiến người đọc không ai có thể cầm được nước mắt.

*Trước đây, chúng tôi cũng có đọc được nhiều tài liệu viết về cuộc CCRĐ và về tòa án nhân dân, đấu tố khủng khiếp này, nhưng phải nhận rằng lời kể của người trong cuộc, tác giả Song Nhị, với giọng văn sắc bén, đầy hình tượng đã làm lay động lòng người. Chính tác giả là người đã làm sống lại dòng chảy của thời gian đã qua, khơi lại nhịp thở của xã hội đương thời, lay động được những hồn ma ngủ quên trong nấm mồ oan khiên của lịch sử, dựng họ dậy để cùng ông lên tiếng, thêm một lần nữa trước công luận thế giới về một giai đoạn tối tăm và bi thảm của lịch sử Việt tộc. (Chương I, II).

Nửa Thế Kỷ Việt Nam kể lại những biến cố trải qua trong cuộc đời của tác giả từ năm 1945 -1995. *Sau thảm họa của CCRĐ là cuộc vượt thoát kỳ diệu của toàn thể gia đình sang đến đất Lào. Những cam go trong bước đầu hội nhập vào một xã hội mới,

những thử thách đôi khi tưởng chừng khó vượt qua được, với ngòi bút ý nhị của tác giả, được ghi nhận lại hết sức sinh động và trở thành bài học kinh nghiệm quý giá cho nhiều thế hệ về sau (Chương III, IV).

Rồi tác giả quyết định trở về quê nhà vào ngày 10-4-1960, “Tôi tung cánh bay về vùng trời Miền Nam Tự Do qua chuyến bay Paksé - Sài Gòn, chấm dứt giai đoạn tị nạn chính trị tại Vương quốc Hoàng Gia Lào, dưới chính thể quân chủ Lập Hiến” (Song Nhị sđd, tr 170).

Kể từ đây, tác giả bắt đầu một cuộc chiến đấu mới đầy thử thách và cam go hơn. Mặt trận mà Song Nhị phải dấn thân là “mặt trận văn hóa với cuộc đối đầu giữa Sinh Viên Quốc Cộng”. 

Tôi tâm đắc nhất là khi đọc đến chương V, VI của cuốn sách này. Tác giả trình bày bối cảnh miền Nam sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cùng các hoạt động của giới Sinh viên Sài Gòn sau khi cuộc cách mạng 1.11.1963 thành công. Đây cũng là giai đoạn mà cá nhân tôi đã tham dự vào các biến động Miền Trung qua các phong trào tranh đấu của Sinh viên thuộc viện Đại học Huế. Từ ngày đó đến nay tôi chưa thấy một quyển sách nào ghi nhận đầy đủ toàn bộ các phong trào đấu tranh của Sinh Viên các viện đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt... Và mong ước của tôi là viết lại bộ sách ghi nhận trung thực phong trào đấu tranh của Sinh viên miền Nam từ năm 1963 -1966. Vì thế, Nửa Thế Kỷ Việt Nam của tác giả Song Nhị đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu sử học những tư liệu hết sức quý giá của giai đoạn biến động Sinh viên này.

*Chương VII đề cập đến đoạn đường bi thương của miền Nam vào tháng 4 đen (1975) mất nước. Những hệ lụy kéo theo sau khi miền Nam bại trận. Cuộc đời đày ải của tác giả trong trại tù cải tạo bắt đầu. Với những nhận xét tinh tế của một nhà văn, với tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, tác giả Song Nhị, qua tám năm lao khổ từ trại tập trung Long Thành đến nhà tù Quảng Ninh, rồi Lam Sơn Thanh Hóa, và cuối cùng là trại Z30A Xuân Lộc, đã để lại cho thế hệ sau một bản cáo trạng về chế độ tù đày khắc nghiệt có một không hai trong lịch sử (Chương IX đến XIII).  *Riêng chương XIII tác giả kể lại chi tiết chuyến tàu xuôi Nam của những người tù bị đưa ra Bắc. Những nghĩa cử ân tình mà người tù đón nhận được từ đồng bào miền Nam khi con tàu vào các sân ga của những địa giới như Quảng Trị, Huế, Diêu Trì, Đà Nẵng, Nha Trang tới Phan Thiết, Dầu Giây... được tác giả ghi lại hết sức xúc động. 

Sau hơn tám năm trời khổ sai trong các trại tù cộng sản, vượt qua biết bao thử thách cam go, có những lúc phải giành giật với tử thần trong đường tơ kẽ tóc, không biết phép lạ nào đã cho mình tồn tại, sống sót để trở về từ cuối tầng địa ngục.

Tác giả Song Nhị tâm sự: “Tôi nếm trải hơn ba ngàn ngày trong các trại tập trung cải tạo, nếm trải từng phút giờ, từng tháng ngày trong nỗi chết, cận kề sự sống. Cái đói khát cào xé ruột gan bao tử, cái chịu đựng nỗi đắng cay tủi nhục như từng mũi kim chích vào thần kinh tâm não, cái đói triền miên từ ngày này sang tháng nọ làm cho thể xác người tù kiệt rạc, hơi thở thoi thóp... Nhưng trong thể xác tàn tạ, điêu linh ấy vẫn còn một sinh lực vô hình ngấm ngầm, chìm lặng để giữ cho thể xác kia không sụp đổ, cho nhân cách phẩm giá không bị ố nhòe. Người ta gọi cái nguồn sinh lực ấy là tinh thần. Đời sống tinh thần không là miếng cơm manh áo, không là ăn ngon mặc đẹp, mà là cái gì sâu thẳm nhất, cái tinh chất nuôi sống con người, chủ động của mọi hành vi, thái độ. Có mấy ai cảm nhận cái sức mạnh “tinh thần” ấy như thế nào trong cuộc sống bình thường êm ả...” (Song Nhị sđd, tr 151).

*Chương XIV với tựa đề “Hy vọng trong màn đêm, ánh sáng cuối đường hầm”, tác giả nhắc đến chương trình HO nhằm đưa tù cải tạo của chế độ miền Nam qua định cư tại Hoa Kỳ. Hành trình của một HO được tác giả trình bày khá rõ ràngthuyết phục với nhiều tư liệu đáng tin cậy. Thật ra, với dạng bút ký, tự truyện như “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” không ai bắt buộc tác giả phải làm việc cẩn trọng đến vậy. Song Nhị là nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo văn học (Lưu Dân Thi Thoại, viết chung với Diên Nghị, California, Cội Nguồn 2003) nên tính cẩn trọng trong tác phẩm được đánh giá rất cao. CCRĐ là cuộc vượt thoát kỳ diệu của toàn thể gia đình sang đến đất Lào. Những cam go trong bước đầu hội nhập vào một xã hội mới, những thử thách đôi khi tưởng chừng khó vượt qua được,
Tôi đón nhận cuốn sách Nửa Thế Kỷ Việt Nam (1945-1995) của tác giả Song Nhị do nhà xuất bản Cội Nguồn ấn hành tháng 1 năm 2010 tại San Jose, California trong cảm tình nồng hậu vì tôi biết tác giả là một con người có lý tưởng. Khi đọc đến chương II nói về cuộc CCRĐ tại quê nhà tác giả vào những năm 1953 -1956 mà toàn thể gia đình Song Nhị bị quy tội thuộc thành phần địa chủ, tôi thật không cầm được nước mắt trước những vết hằn đau thương mà cậu bé chưa đầy 15 tuổi đã phải chịu đựng. Rồi cứ thế, tôi theo chân cậu bé 15 đó trên bước đường vượt Trường sơn qua Lào để tìm hơi ấm của tự do. Ngày 10-4-1960, cậu bé ngày nào của nạn đói Ất Dậu bây giờ đã là chàng thanh niên căng đầy nhựa sống (22 tuổi) đã đặt chân xuống Sài Gòn hoa lệ, thủ đô của miền Nam sung túc và giàu có.

Chàng trai bị đuổi học thời Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc nay đang là Sinh Viên ngành Luật của miền Nam và cả tương lai đang chờ đợi anh phía trước. Nhưng thực sự thì anh đang bước vào cuộc chiến tuy âm thầm nhưng rất mãnh liệt mà anh gọi là “Mặt trận Văn hóa: Cuộc đối đầu giữa Sinh viên Quốc Cộng”, khi anh đang theo học ngành cử nhân Khoa học Nhân Văn tại trường Đại học Vạn Hạnh và đang là Chủ bút của Bán nguyệt san Hướng Đi của Tổng Hội sinh viên (Đại Học Vạn Hạnh 1965-1968). Anh đã trốn chạy chế độ cộng sản khi còn là cậu bé 15 tuổi nên không lạ gì khi anh dùng ngòi bút để chiến đấu chống lại sự xâm nhập của cộng sản trong hàng ngũ Sinh viên miền Nam vào đầu thập niên 1960.

Thế rồi cuộc diện thay đổi, miền Nam mất vào tay cộng sản vào tháng Tư đen 1975, tác giả Song Nhị cũng như hàng vạn người yêu nước khác của chế độ miền Nam đã phải chịu những tháng năm đày ải khổ sai trong các trại tù của cộng sản. Tháng 5/1983 tác giả được thả ra khỏi trại tù Xuân Lộc như trả xong món nợ tiền kiếp, về đoàn tụ với mẹ cha và với người vợ – chị Trần Thị Kim Nhiễu, người chinh phụ thời đại, 22 tuổi xa chồng sau hai năm hương lửa, tám năm chờ chồng và 13 năm sau, kể từ ngày lập gia đình mới sanh con đầu lòng. Toàn bộ gia đình Song Nhị đã đến Mỹ trong danh sách HO14, định cư tại San Jose từ ngày 16-2-1993 cho đến nay.

Nửa Thế Kỷ Việt Nam kể lại toàn bộ cuộc đời lưu lạc nổi trôi của tác giả từ 1945 đến 1995. Đây là tác phẩm dưới dạng hồi ký, hay theo cách gọi của tác giả là tập “bút ký, tự truyện”. Dĩ nhiên, đây không phải là tác phẩm biên khảo sử học để buộc tác giả phải tuân theo những quy định khắt khe của ngành học này trong vấn đề trích dẫn, chú thích hay tham khảo. Điều mà người viết muốn được nhấn mạnh ở đây là tác phẩm này có giá trị đến mức độ nào đối với các nhà nghiên cứu lịch sử khi cần viết về giai đoạn tranh chấp Quốc Cộng vừa qua.

Hồi ký, bút ký hay tự truyện đều có thể là nguồn sử liệu cần thiết cho các sử gia khi nghiên cứu đến một giai đoạn lịch sử nào đó. Tuy nhiên nó phải được sàng lọc qua hai công đoạn cần thiết của phương pháp sử học: Cẩn án ngoại (External Study) và Cẩn án nội (Internal Study).

Từ tác giả đến nội dung tác phẩm đều cho phép tin cậy được thì Hồi ký, Bút ký hay Tự truyện, trong chừng mực của nó đều cho phép các nhà nghiên cứu dùng làm sử liệu cho công trình biên soạn của mình.

“Vũ Trung Tùy Bút” của Phạm đình Hổ hay “Tang Thương Ngẫu Lục” của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đều viết về chính sách kinh tế và đời sống xã hội sa đọa dưới thời Chúa Trịnh đều được các sử gia sau này trích dẫn trong các tác phẩm sử học của họ.

“Phù biên Tạp lục” của Lê Quý Đôn, hay “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Thời Chí cũng vậy, cũng chỉ là dạng bút ký hay “tạp lục”, thế mà về sau đã trở thành những tư liệu quý hiếm khi đề cập  đến lịch sử thời cận đại.

Gần chúng ta hơn có “Tuấn - Chàng Trai Nước Việt” của nhà văn Nguyễn Vỹ, lấy bối cảnh của người thanh niên Việt Nam từ sau Thế chiến Thứ nhất (1914-1918) để kể lại tâm tình, cách suy nghĩ và hành động của giới trẻ thời đó mà bây giờ nếu nhà nghiên cứu nào muốn biết về hướng đi, nhịp thở, phong cách, sự suy nghĩ của giới thanh niên vào những thập niên đầu thế kỷ 20, không ai là không tìm đọc “Tuấn Chàng Trai Nước Việt” của Nguyễn Vỹ.

Cũng vậy, theo suy nghĩ của tôi, rồi ra trong vài ba mươi năm sau nữa, cuốn sách Nửa Thế Kỷ Việt Nam (1945-1995), bút ký của nhà văn Song Nhị nói về những biến cố trọng đại qua cuộc tranh chấp Quốc Cộng ảnh hưởng lên cuộc đời cá nhân và gia đình, đến vận mệnh của cả dân tộc, sẽ trở thành nguồn sử liệu hiếm quý cho các nhà nghiên cứu sử học trong tương lai.

LÊ ĐÌNH CAI (*)
San Jose, những ngày vào Xuân Bính Dần 2010


--------------------------------
(*) Giáo sư Lê Đình Cai là giảng sư dạy môn sử học tại Đại học Đà Lạt, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và Trường Đại Học Văn
Khoa Huế (1968-1975). Hiện ông cũng là Giáo sư Sử học tại một số trường Đại học tại Hoa Kỳ (từ 1996 đến nay).


3 comments:

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...