I. PHẢN TỈNH MUỘN MÀNG
Năm 1954, sau Hiệp định Geneve ký kết giữa Pháp, Nga sô,
Trung cộng và CSBV (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17,
hơn một triệu người miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam tìm tự do và tìm đất sống. Đây
là cuộc di cư vĩ đại lần đầu tiên trong lịch sử Việt tộc vào thời cận đại. Hãy
khoan nói về cuộc di cư vĩ đại lần thứ hai, với hơn hai triệu người, sau ngày
30-4-1975 mà trong đó có nhiều, rất nhiều người đã từng bỏ xứ ra đi bằng tàu há
mồm từ Hà Nội Hải Phòng vào miền Nam Việt Nam năm 1954.
Một cách ví von, người ta cho rằng đó là những cuộc bỏ phiếu
bằng chân dành cho chế độ Cộng sản, mà nếu được tự do ra đi công khai, sẽ có
hàng chục triệu “lá phiếu” như vậy. Điều đáng nói ở đây là tại sao trước một
hiện thực lớn lao như thế mà có không
ít những người được cho là trí thức, là có ăn học lại không nhìn ra được thực
chất của sự kiện? Họ đa nghi, mù quáng hay vì một một lý do nào đó, nhưng hẳn
không phải là vì thiếu kiến thức, bởi vì họ là những người được cho ăn học.
Một thiểu số, không nhiều, nhưng những con sâu độc ấy đã tác
hại không nhỏ vào con đường chính nghĩa của quân dân miền Nam trong công
cuộc chiến đấu bảo vệ cuộc sống yên lành và tự do, nhân phẩm của con người.
Những con sâu độc trong ổ sâu bọ đi theo “MTDTGPMN”, đám trí thức xôi thịt, và
đám sinh viên thiển cận, mù quáng, giờ đây không còn, hay không dám cựa quậy
trong một xã hội đầy dẫy ung nhọt nhớp nhúa, cam phận là kẻ tội phạm đồng lõa
bán đứng miền Nam cho chủ nghĩa cộng sản, đang nằm nghe lời nguyền rủa của
lương tâm và lịch sử.
Một trong những trí thức tiêu biểu cho hạng người THIỂN CẬN
ấy – Lãnh tụ Sinh Viên phản chiến Đoàn Văn Toại đã phát biểu như sau:
“Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam
năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu
chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam
lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã
không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The
Gulag Archipelago) của văn hào Nga Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó
là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng.” (ĐVT, Quần đảo ngục tù Việt Nam -
The Vietnamese Gulag).
Hình như con người, khi có sẵn một thành kiến nào đó thì họ
dễ dàng bị mù quáng, lý trí bị mây mù thành kiến che khuất, dẫn tới những hành
động thiếu khôn ngoan.
Có một sự kiện lịch sử, chưa có ai đề cập và gần như đi vào
quên lãng, đó là hành động tự vẫn của nhà văn Nhất Linh, tức nhà cách mạng
Nguyễn Tường Tam. Ông Nguyễn Tường Tam đã tự tử, mất ngày 7-7-1963 tại Sài Gòn,
(sau một cái trát mời hầu tòa) để phản đối chế độ Đệ Nhất Cộng hòa của TT Ngô
Đình Diệm “đàn áp Phật Giáo”. Ngày nay, người ta đã nhìn thấy chế độ của TT Ngô
Đình Diệm có đàn áp Phật Giáo hay không? Và sự cáo chung của Đệ Nhất Cộng Hòa
đã đem đến hậu quả gì? 30-4-1975, miền Nam rơi vào ách thống trị của tập
đoàn Cộng sản bán nước.
Ông Nguyễn Tường Tam là một nhà trí thức, một nhà cách mạng,
nhưng vì thành kiến với chế độ của TT Ngô Đình Diệm, ông đã không nhìn ra hậu
quả của việc đánh sập chế độ, phá bỏ thế ổn định, gây nên tình trạng hỗn loạn
chính trị, xáo trộn đời sống xã hội, tạo lợi thế cho Cộng sảïn về mặt quân sự.
Ông đi tìm cái chết và phủi tay trước trách nhiệm đối với 30 triệu người dân
miền Nam lúc ấy, thay vì ông đi tìm một giải pháp và cùng chung vai gánh vác
trách nhiệm. Đó là một cái chết mà ngôn ngữ đường phố gọi là lãng nhách, vô
ích, không cần thiết cho đại sự.
Chỉ riêng về thời kỳ lịch sử miền Nam Việt Nam 1954-1975, đã
xuất hiện khá đông một số trí thức khoa bảng, tu sĩ và tuổi trẻ trong giới sinh
viên nổi lên thành những tên tuổi trong các phong trào phản chiến, chống đối
chế độ, tiếp tay hoặc đi theo hoạt động cho Cộng sản. Chúng ta còn nhớ những
tên tuổi như Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Ngô
Công Đức, Dương Văn Ba, Trần Ngọc Liễng, (bà) Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh
Liên.... những tu sĩ như Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc
Từ, và những tu sĩ Ấn Quang... cùng với đám SV Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban,
Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng, Trần Thị Lan, Nguyễn Hữu Thái.... ở Sài Gòn, sau
30-4 trở thành những lẻ lêu bêu giữa xã hội CS độc quyền chính trị.
Ở, Huế, những tên đồ tể như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh... cũng chỉ là những miếng vỏ chanh để CS vắt tiếp
trước khi vứt vào thùng rác.
Những tên tuổi trí thức khoa bảng như Trịnh Đình Thảo, Phùng
Văn Cung, Hồ Thu, Nguyễn Hữu Thọ, Lâm Văn Tết, Dương Quỳnh Hoa, Thanh Nghị...
đi theo “giải phóng” cuối cùng cũng gia đình tan nát. Khi tỉnh ngộ, bao nhiêu
biệt thự, phố xá, đồn điền, gia sản, ruộng đất, cơ xưởng, cửa hàng, nhà thuốc
tây... trở thành tài sản của nhà nước. Bản thân lêu bêu, mấy năm sau chết trong
âm thầm ghẻ lạnh của chính quyền*.
Trước sự sụp đổ của xã hội miền Nam, người dân trong xã hội
mới – xã hội XHCN lâm vào cảnh điêu linh, không một người nào trong đám trí
thức này dám mở miệng nói lời phản kháng; hoặc ít ra, nói lời sám hối như một
số Sinh Viên Việt Cộng phản chiến, nằm vùng, dù có muọân màng: Lê Hiếu Đằng,
Huỳnh Tấn Mẫm, Đào Hiếu, Đoàn Văn Toại...
Toại nguyên là Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Saigon từng biểu
tình đòi Quốc Hội hủy bỏ cuộc bầu cử Tổng Thống Thiệu, đốt xe Mỹ, viết điện tín
gởi TT. Richard Nixon!. Nhưng rồi cũng bị tù ngay trong những ngày đầu “giải
phóng”. Thoát được ra nước ngoài, Đoàn Văn Toại viết sách so sánh hai chế độ
lao tù trong quyển “Quần đảo ngục tù của người Việt Nam” (The Vietnamese Gulag).
Toại viết trong hồi ký, nhớ những ngày tù thời Thiệu, thức
ăn không hết, còn làm khó chính phủ “cơm tù không đủ tiêu chuẩn” nên trả lại!
Quần áo thay đổi liền liền; phòng giam Sàigon rộng rãi bằng 40 lần nhà tù mang
tên HCM. Vào tù Tp Hồ Chí Minh nghẹt thở, “nhà tù Thiệu rộng quá!”
Cuối cùng Đoàn Văn Toại đã thành thật sám hối, nhận tội
trước lịch sử và nhân dân miền Nam:
“Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và
nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng
ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi...”
Người thứ hai là Lê Hiếu Đằng, quê Quảng Nam, theo học tại
đại học Luật Khoa Sài Gòn, nguyên là phó Tổng Thư Ký Ủy ban Trung Ương Liên
Minh các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam (1968-1977), nguyên
Tổng thư ký Uỷ Ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định (1969-1975), nguyên
phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM (từ 1989-2009), là Đại biểu HĐND Thành
phố khóa 4, khóa 5.
Từ 1975 đến 1983 Đằng là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa
xã hội khoa học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Chức
vụ sau cùng là Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đúng bảy tuần lễ trước khi nhắm mắt, người đảng viên hơn 40
tuổi đảng này đã ra tuyên bố rời bỏ Đảng Cộng sản, mang theo nỗi ân hận tiếp
tay cho “các tập đoàn lợi ích phản bội nông dân, phản bội dân tộc Việt Nam”
(Lời của LHĐ nói với đài RFI). Và đây là nguyên văn bản tuyên bố viết tay của
Lê Hiếu Đằng:
Tôi tên LÊ HIẾU ĐẰNG là ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VN, hơn 40
tuổi đảng. Nay tôi tuyên bố công khai ra khỏi đảng CSVN vì:
ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân
tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi
ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi
ích dân tộc, nhân dân.
Tôi xin xác định đây là quyết định của tôi.
Ngày 04.12.2013
Lê hiếu Đằng
(chữ ký)
Một tên tuổi khác, Huỳnh Tấn Mẫm, tên khai sinh là Trần Văn
Thật, sinh tại Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định học sinh Trung học Petrus Ký. Năm
1963, Mẫm đậu Tú tài toàn phần và trúng tuyển kỳ thi vào Đại học Y khoa Sài
Gòn, vì học khá cho nên được Bộ Y tế chính phủ VNCH cấp học bổng. Mẫn tốt
nghiệp BS Y khoa sau 1975.
Năm 1958, lên 15 tuổi, đang học lớp Đệ ngũ (lớp 8) trường
Pétrus Ký, Mẫm được kết nạp vào tổ chức bí mật do Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí) cầm
đầu. Tại đây, Mẫm từng được giao công tác rải truyền đơn chống chính quyền Sài
Gòn và năm 1960 được kết nạp vào Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng Sài
Gòn-Gia Định.
Năm 1963 Mẫm được kết nạp vào tổ chức của Cọâng Sản vào thời
kỳ Phong trào Phật Giáo.
Năm 1965, được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách
mạng.
Là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn - Gia Định nhiệm kỳ
1969-1970.
Từng là Đại biểu Quốc hội CS khóa 6, từng là Tổng biên tập
đầu tiên của báo Thanh Niên.
Hiện là chủ tịch của cái gọi là “Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo
Thiên Tâm”, thuộc Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố, Ủy viên Ủy Ban Mặt
Trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố HCM.
Tại Sài Gòn, ngày 4 tháng 7 năm 2014 Huỳnh Tấn Mẫm phổ biến
một thư ngỏ gởi tuổi trẻ Việt Nam, kêu gọi những thế hệ Thanh niên -Sinh viên
-Học sinh hôm nay thức tỉnh toàn diện trước một giai đoạn lịch sử. Trong thư có
đoạn:
“- Sức mạnh có ưu thế nhất đang lớn lên từ trong tim và
trong trí tuệ của các bạn, là niềm hy vọng của dân tộc – những thế hệ Thanh
niên-Sinh viên-Học sinh hôm nay”...
Mẫm kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam phải cương quyết làm người công
dân tự do, dù xã hội chưa có luật pháp thừa nhận tự do đúng nghĩa. Phải cương
quyết làm con người có quyền con người, dù quyền con người chưa được thừa nhận
đầy đủ. Phải có quyền và có nghĩa vụ – quyền sống tự do và nghĩa vụ bảo vệ độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ...”
Một người khác, Đào Hiếu sinh năm 1946 tại Bình Định, gia
nhập các phong trào học sinh hoạt động cho CS tại Quy Nhơn. Năm 1968 gia nhập
đảng CS. Năm 1970 bị bắt quân dịch, là binh nhì Sư đoàn 22 Bộ Binh QL.VNCH, sau
đó trốn vào Sài Gòn hoạt động với tổng hội sinh viên phản chiến cho tới
30-4-1975.
Hiếu tốt nghiệp Cử nhân văn chương trước 75, sau 75 cộng tác
với báo Tuổi Trẻ và NXB Trẻ. Năm 2009, sau nhiều lần bị công an gọi làm việc,
Đào Hiếu bị buộc phải xóa hết bài trên trang web http://daohieu.com để đổi lấy
an toàn bản thân, khỏi bị bắt giam.
Năm 2000 Đào Hiếu đã xuất bản tác phẩm “NỔI LOẠN”, gây được
tiếng vang trong dư luận. Tác phẩm này đã được giới thiệu trong mục Điểm Sách
(do nhà văn Diên Nghị phụ trách) trên trang Văn Học Cội Nguồn, Thời Báo Bắc California, tháng
8/2000. Phải mất 25 năm, sau ngày 30-4 Đào Hiếu mới thức tỉnh và dám lên tiếng,
như một đốm sáng lóe lên trong một màn đêm ngột ngạt.
Mới đây, sau ngày Trung Cộng đặt giàn khoan Hải Dương trên
vùng biển thuộc chủ quyền VN, trước sự im lặng hèn nhát của giới lãnh đạo đảng
CSVN, Đào Hiếu đã phổ biến trên mạng bài viết HUYỀN THOẠI ĐU DÂY – Cho rằng hành động của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn
Linh và các Ủy viên bộ Chính trị năm 1990 tại hội nghị Thành Đô là một việc làm
mà bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là: “Bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc
mới rất nguy hiểm”. Bài viết khẳng định: Rõ ràng là ngay từ những ngày đầu
thành lập chế độ, thì Việt Nam
đã hành xử như một tỉnh lẻ của Trung Quốc. Từ trước 1945 đến nay, nhà cầm quyền
CSVN đã một lòng theo Trung Quốc, đã chọn Trung Quốc làm ông chủ, đã nguyện
nâng khăn sửa túi cho Trung Quốc, đã khép nép làm “con nuôi” của Mao Trạch
Đông, Đặng Tiểu Bình và ngày nay là Tập Cận Bình.
Chuyện Việt Nam
đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ xem ra chỉ là bịa đặt.
II. JANE FONDA và PHẢN
CHIẾN MỸ:
Hành Vi Cảm Tính Và Sự Thức Tỉnh Kịp Thời.
Chiến tranh Việt Nam, kết thúc đến nay đã 40 năm.
Nhưng lịch sử chưa khép lại ở đây. Bức tường đen khắc tên 58 ngàn quân nhân Mỹ
hy sinh trên chiến trường Việt Nam sẽ mãi mãi còn sừng sững và in đậm trong pho
chiến sử của Hoa Kỳ. Đã có hàng chục, có thể hàng trăm tác phẩm, bài viết về
cuộc chiến này, đã và đang trưng bày, lưu trữ trong các thư viện nhiều quốc gia
trên thế giới.
**
40 năm, nhìn lại những phản diện ẩn khuất – mặt tối, mặt
sáng của cuộc chiến, những ẩn giấu lịch sử đang dần dà được phơi bày qua những
tài liệu giải mật. Sự Thật, Thiện Ác, Chánh Tà đã được xác quyết. Ngày nay gần
90 triệu người dân Việt, ngoại trừ số công bộc hoặc lớp người đang hưởng những
quyền lợi vật chất do đảng CS ban bố, đều nhìn nhận cuộc chiến Bắc Nam, Quốc
Cộng, do CSBV phát động xâm lăng miền Nam là một cuộc chiến tàn ác và phi
nghĩa. Cuộc chiến đã làm tiêu hao hàng chục thế hệ, hàng trăm năm thành tựu của
đất nước.
Ngày nay, sách vở và công luận của người dân miền Nam VN, ở
trong nước và hải ngoại, kể cả một bộ phận người Mỹ, đều lên án Hoa Kỳ là kẻ
phản bội đồng minh. Bên cạnh đó có một lập luận cho rằng nếu không có sự tiếp
tay của phong trào phản chiến Mỹ thì Cộng Sản VN đã không thể thắng chiến tranh
Việt Nam
dễ dàng như vậy.
Người Mỹ phản chiến ở cách xa Việt Nam nửa vòng trái đất,
phần đông chưa đặt chân tới Việt nam,
chưa có hiểu biết gì về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Khi cuộc chiến đến hồi leo
thang, với sự hiện diện của trên năm trăm ngàn lính Mỹ trên chiến trường VN.
Tin tức hàng ngày trên hệ thống truyền thông loan tải những trận đánh ác liệt
với con số tử vong lính Mỹ ngày một tăng cao, nhiều người xúc động trước sự
chết chóc, trong đó có con em họ, họ tham gia vào hàng ngũ phản chiến là hành
động khác hẳn với đám trí thức Sài Gòn tiếp tay với Việt Cộng.
Người Mỹ phản chiến với sự tiếp sức thúc đẩy của giới truyền
thông và đám văn nghệ sĩ cấp tiến, thiên tả đã tạo thành một áp lực mạnh mẽ
buộc chính quyền của các đời tổng thống từ John F. Kennedy, Richard Nixon,
Lyndon Johnson, đến Gerald Ford phải lúng túng mà đi tới quyết định .... Phản
Bội Đồng Minh!
Trong hàng ngũ phản chiến Mỹ có những người không vì tình
cảm trắc ẩn mà cố tình tiếp tay kẻ thù, phản bội sự hy sinh của các tù binh Mỹ, như trường hợp
của nữ minh tinh màn bạc Jane Fonda mà các cựu chiến binh Mỹ lên án cô là tên
phản quốc, với tấm ảnh biểu tượng bằng sợi dây thòng lọng.
Trong phong trào phản chiến Mỹ từ giữa thập niên 60s, hai nữ
nghệ sĩ nổi bật là Jane Fonda và Joan Baez.
Jane Fonda còn được các cựu quân nhân Hoa Kỳ gọi là Jane
Fonda-Jane Hanoi, và Hanoi Jane, một
nhân vật mà khi nói đến chiến tranh VN không thể không nhắc đến. Tấm ảnh chụp
tại Hà Nội tháng 7-1972 cho thấy Jane Fonda ngồi vào ghế súng, bên súng phòng
không, đội nón sắt, tay cầm càng súng như thể đang bắn máy bay Mỹ, được truyền
thông phổ biến và ghi chú. (xem
ảnh)
Jane Fonda sings an antiwar song near Hanoi during the Vietnam War in July 1972.
Fonda, seated on an anti-aircraft gun and wearing a Vietnamese-madeao-dai pantaloon
and blouse, came to "encourage" North Vietnamese troops. She now says
the incident was a "betrayal" of U.S. soldiers.
Jane ân hận vì sự cố tấm ảnh này tự nó đã tố cáo cô là kẻ
phản quốc, Jane cố tình ngăn chặn, nhưng không kịp. Ảnh đã được phổ biến rộng
rãi qua truyền thông quốc tế.
Barbara Walters, nữ xướng ngôn viên của đài CBS đã chỉ trích
việc TT Obama có ý định vinh danh Jane Fonda là một trong "100 người Đàn
bà của Thế kỷ."
Barbara Walters viết: “Không may là nhiều người đã lãng
quên, thậm chí còn không biết bao nhiêu người khác nữa chưa từng biết Fonda đã
phản bội không chỉ ý thức hệ của đất nước Hoa Kỳ mà còn phản bội những người đã
phục vụ và hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam”.
Nhiều Sĩ Quan Phi công tù binh Mỹ là "tội phạm chiến
tranh" của Jane Fonda.
- Trung Tá Jerry Driscoll, một phi công F-4E đã khạc nhổ vào
Jane Fonda tại Hỏa Lò Hà Nội, đã bị công an đánh bằng dùi cui và gậy gỗ một
cách điên cuồng.
- Cũng tại Hỏa Lò, có một lần Jane Fonda đã trao cho viên
trưởng trại hết những mẩu giấy (các tù binh ghi tên và số an sinh xã hội) nhắn
cho gia đình biết là còn sống, lén lút nhờ Jane đưa về Mỹ. Vì việc này, có ba
trong số bốn phi công tù nhân bị đánh chết. Đại tá Larry Carrigan (6 năm ở Hỏa
Lò) là người thứ tư xuýt chết, nhưng ông đã sống sót, nhờ đó hành động của Jane
Fonda đã được đưa ra ánh sáng.
Sau 30-4-1975, nhiều người Mỹ phản chiến đã thật lòng hối
lỗi, đã nhìn nhận sai lầm, nhưng Jane Fonda tuyệt nhiên không. Không bao giờ
Jane bày tỏ sự hối tiếc về hành động phản bội của mình.
Jane Fonda: “Tấm ảnh
là một lỗi lầm lớn của tôi”
Veterans: Tha Thứ? Có
thể. Quên? Không bao giờ.
Mãi tới tháng 1-2015, trong một buổi nói chuyện của Jane
tại Trung tâm Nghệ Thuật “The Weinberg Center for the Arts”, ở tiểu
bang Maryland vào ngày thứ bảy, 17 tháng 1, kéo the nhiều đám đông phản đối,
trong số đó có 50 cựu chiến binh.
Nhiều người phản đối mang theo bản copy những tấm hình Jane,
ngồi trên chiếc xe bắn máy bay, chụp tại
Hà Nội năm 1972 với dòng chữ: "Forgive? Maybe. Forget? Never."
(Tha Thứ? Có thể. Quên? Không bao giờ).
Tại buổi nói chuyện này, để trả lời những câu chất vấn của
cử tọa, Jane – người nữ minh tinh đoạt giải Oscar, nay 77 tuổi, đã gọi “tấm ảnh
nổi tiếng của bà ở Việt Nam là một lỗi lầm lớn (a huge mistakes). Jane bày tỏ
sự hối hận. Bà nói: “Bất cứ lúc nào có thể được, tôi sẽ thử ngồi xuống với các
cựu chiến binh và nói chuyện với họ, bởi vì tôi hiểu điều đó đã làm tôi buồn.
Nó làm tôi đau đớn và tôi sẽ mang xuống tận đáy mồ Jane nói thêm: “tôi đã làm
nên một lỗi lầm lớn, rất lớn, khiến nhiều người nghĩ là tôi chống lại những
người chiến binh Mỹ”.
Tờ The Frederick News-Post tường thuật phần đông những người
đến phản đối là các cựu chiến binh. Tập họp ngoài hí viện, nơi Fonda có buổi
nói chuyện trong hai giờ Họ la ó (booing): Tha Thứ? Có Thể. Quên? Không bao
giờ.
Đây không phải là lần đầu tiên người nữ tài tử này nói về sự
nổi tiếng của bà là “một kẻ phản quốc”. Năm 2011, bà đã viết cho trang blog
Huffpost, hy vọng sẽ nói lên “sự thật” về câu chuyện của bà. Jane viết: “Sự dối
trá này đã luân lưu trong gần 40 năm, tiếp tục mở lại vất thương của cuộc chiến
tranh Việt Nam và gây nên sự đau đớn của các gia đình người Mỹ từng phục vụ
cuộc chiến. Sự dối trá làm sai lạc sự that về việc tại sao tôi đến miền Bắc
Việt Nam
và họ kéo dài huyền thoại chống chiến tranh có nghĩa là chống lại người lính.
Năm 2013, lần xuất hiện trong chương trình "Oprah's
Master Class", trước đó Jane đã gọi tấm ảnh kia là “một lỗi lầm không thể
tha thứ”.
Hình như Jane Fonda bị ám ảnh bởi điều mà nhiều người cho là
bà ta đã phản bội những người chiến binh Mỹ. Theo tờ Frederick News-Post, Jane
đã không hề lấy làm ân hận thời gin bà đến Việt Nam, cuối cùng bà vẫn cho
chuyến đi của bà là một kinh nghiệm không thể tưởng tượng được.
SN lược dịch
theo The Huffington Post, 01/19/2015
Jane Fonda Draws Veteran Protesters In Maryland,
Says Vietnam
Photo Was A 'Huge Mistake'
Ỷ Lan, một người Anh phản chiến, sau 1975
đã bày tỏ sự hối hận và đứng hẳn về phe người quốc gia tỵ nạn chống CSVN.
Một ca sĩ phản chiến người Mỹ Joan Baez, đã hồi tâm và chuộc lỗi bằng hành động dấn thân đến tận
các trại thuyền nhân tỵ nạn để tìm hiểu tại sao VN “hòa bình” rồi mà hàng hàng
lớp lớp người vẫn vạch đường máu để ra đi? Bà đích thân đi “điều tra”, tìm hiểu
sự thật từ các trại tị nạn tại Thái Lan, Phi Luật Tân, Mã Lai, và
Indonesia...
Nhà văn Nguyễn Việt Nữ, trong bài viết “Nhớ Air Raya, Hoang
đảo cứu người và Joan Baez” cho biết bà đã gặp Joan Beaz tại đảo Air Raya, Indonesia.
Joan Baez đến Air Raya, mời họp các người tị nạn, phần đông
là các quân nhân tham dự. Họ viết đơn nói rõ lý do ra đi. Joan đã nghe tận tai
những sự thật tàn bạo trong xã hội và nhà tù CSVN sau 75, chẳng hạn “Tòa án
nhân dân” của CSVN kết án tử hình trước khi xử! Hòm đã để sẵn sau phòng xử của
phiên tòa.
Sau khi thu thập được những chứng cứ từ thuyền nhân qua các
trại tỵ nạn, Ca sĩ Joan Baez ôm hết chồng hồ sơ từ các trại tị nạn về Hoa Thịnh
Đốn, bắt tay vào những việc làm thiết thực, cụ thể:
I./ Kêu gọi những người trong hàng ngũ
phản chiến cũ cùng ký tên vào một thư ngỏ “Open Letter to the Socialist
Republic of Vietnam” gởi nhà cầm quyền CSVN. Thư ngỏ đó có được 78 chữ ký của
những nhân vật phản chiến nổi danh, và đã đăng trên tờ The New York Times số ra
ngày 1/5/1979.
II./ Khiếu nại với Tổng thống Mỹ lúc ấy là Jimmy Carter, rồi
kéo đệ nhất phu nhân đi Thái Lan thăm người vượt biển. Bà cùng nhiều đoàn thể
khác nữa như Đại Đức Thích Giác Đức, cùng Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Sinh Viên
Ngô Vương Toại kêu gọi T.T. Jimmy Carter phải nhận người tị nạn Đông Dương cho
vào Mỹ.
Nguyên văn Thư Ngỏ 1979 của 78 nhân vật Phản Chiến Mỹ gởi
nhà nước CHXHCN.VN: (*)
"Cách đây 4 năm, Hoa Kỳ đã chấm dứt 20 năm hiện diện ở
Việt Nam.
Một dịp kỷ niệm đúng ra là nguyên nhân để đón mừng, nhưng thay vào đó, lại là
lúc để đau buồn.
Với một thảm họa thật mỉa mai, sự tàn ác, bạo lực và đàn áp
do các thế lực nước ngoài áp đặt lên đất nước quý vị trong hơn một thế kỷ qua,
đang tiếp tục ngày hôm nay dưới chế độ hiện thời. Hàng ngàn người Việt Nam vô
tội, nhiều người mà "tội" của họ chỉ là các vấn đề thuộc lương tâm,
hiện đang bị bắt giữ, tạm giam và tra tấn trong tù hoặc các trại cải tạo.
Thay vì mang lại hy vọng và hoà giải cho đất nước Việt Nam
bị chiến tranh tàn phá, thì nhà nước của quý vị lại tạo ra một cơn ác mộng đau
đớn và che khuất đi những tiến bộ quan trọng đã đạt được trong nhiều phạm vi
của xã hội Viêt Nam. Nhà nước quý vị đã tuyên bố vào tháng 2/1977 rằng có
khoảng 50 ngàn người đang bị giam giữ lúc đó. Nhiều ký giả, các nhà quan sát
độc lập và người tỵ nạn ước lượng rằng con số tù nhân chính trị hiện thời
khoảng giữa 150 ngàn và 200 ngàn người.
Con số chính xác có là gì đi nữa, thì sự thật đang tạo thành
một bức tranh đen tối. Nhiều tin tức được xác nhận đang xuất hiện trên báo chí
thế giới, từ báo Le Monde và The Observer đến Washington Post và Newsweek.
Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện của những người đến từ Việt Nam - công nhân
và nông dân, các nữ tu Công giáo và tu sĩ Phật giáo, các thuyền nhân, văn nghệ
sĩ và các nhà chuyên môn cũng như những người đã từng chiến đấu bên cạnh Mặt
trân giải phóng.
- Các nhà tù đang tràn ngập với hàng ngàn đến hàng chục ngàn
"tù nhân".
- Nhiều người bị mất tích và không tìm được tông tích.
- Nhiều người bị đưa đến các trại cải tạo, cho ăn bằng những
khẩu phần gạo chết đói, buộc phải ngồi với cổ tay và cổ chân bị trói chặt, đến
ngạt thở trong các thùng connex.
- Nhiều người bị dùng như những vật dò tìm bom mìn, dọn các
bãi mìn bằng
tay chân trần trụi.
Đối với nhiều người, sống là địa ngục và cái chết là điều
mong ước. Nhiều nạn nhân là đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã từng ủng hộ và chiến
đấu cho mục tiêu thống nhất đất nước và quyền dân tộc tự quyết, họ là những
người vì hòa bình, thành viên của các tổ chức tôn giáo hoặc vì các nền tảng đạo
đức triết lý đã chống đối lại các chính sách độc đoán của chế độ Thiệu Kỳ; họ
là các văn nghệ sĩ và trí thức quyết tâm được tự do sáng tạo bị hất hủi bởi các
chính sách độc tài của nhà nước quý vị.
Yêu cầu của Tổ chức Ân xá Quốc tế và nhiều tổ chức khác để
được tự tìm hiểu tình trạng lao tù vẫn chưa được đáp ứng. Các gia đình muốn
biết tin tức về vợ chồng, con cái họ đều bị thờ ơ...
Chính một quyết tâm bền bỉ về các nguyên tắc cơ bản của nhân
cách, tự do và quyền tự quyết đã là động cơ thúc đẩy rất nhiều người Mỹ phản
đối chính quyền miền Nam
và sự tham dự của đất nước chúng tôi vào cuộc chiến. Cũng chính vì một quyết
tâm tương tự bắt buộc chúng tôi phải lên tiếng phản đối sự bất chấp đến tàn bạo
về nhân quyền của quý vị.
Chúng tôi kêu gọi quý vị hãy chấm dứt ngay việc bỏ tù và tra
tấn – cho phép một nhóm quốc tế gồm các nhà quan sát trung lập được đến để
thanh tra các nhà tù và trung tâm cải tạo của quý vị.
Chúng tôi khuyến cáo quý vị nên tuân theo các nguyên tắc của
Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính
trị mà đất nước quý vị là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, đã cam kết phải
thi hành.
Chúng tôi khuyến cáo quý vị nên xác định lại cam kết mà quý
vị đã tuyên bố về các nguyên tắc về tự do và phẩm cách con người... để thiết
lập một nền hoà bình thật sự tại Việt Nam
Ký tên: Joan Baez
-----------------------
Thư được 78 nhân vật nổi tiếng ký tên, trong đó có I. F.
Stone, Barton Bernstein, Daniel Berrigan, Jerome Weisner, Bert Coffey, Benjamin
Dreyfus, Sanford Gottlieb, Terence Hallinan, Staughton Lynd, Allen Ginsberg,
Edmund Pat Brown, Ginetta Sagan, Cesar Chavez, và Nat Hentof... trong đó có vài
tên Mỹ Cộng nổi bật. (Người dịch - NVN)
(*) Bản địch của nhà văn Nguyễn Việt Nữ
No comments:
Post a Comment