Saturday, April 30, 2016

Vài Nét về Tác Giả “50 Năm Cầm Bút”






Song Nhị, danh tính và vóc dáng quen thuộc trong sinh hoạt văn học nghệ thuật tại hải ngoại gần 20 năm qua..

Sinh ra và lớn lên tại quê hương Hà Tĩnh, mảnh đất miền Trung khô cằn sỏi đá, lại là đất thiêng, sản sinh nhiều anh kiệt. Thi hào Nguyễn Du với Truyện Kiều, ngày nay trở thành danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm được chuyển ngữ hơn 40 thứ tiếng, mang lại niềm hãnh diện cho dân tộc Việt khắp cùng trời cuối biển.

Song Nhị thuộc dòng tộc Trần Kim, một trong những dòng tộc lớn, vào thế kỷ 17 (năm 1685) đã có vị quan nhất phẩm thời vua Lê Hy Tông, với công lao phò vua giúp nước.

Vào lứa tuổi học trò, niên thiếu, Song Nhị đã chạm mặt với bi kịch qua cuộc giảm tô và cải cách ruộng đất tàn bạo, man rợ năm 1950 -51 đến 1956 do cộng sản miền Bắc phát động. Sự việc xảy ra không từ đầu làng cuối xóm, không chỉ nghe nói, mà xảy ra ngay tại sân nhà gia đình, nạn nhân chính thực máu thịt chính mình.
………...
…………

Sau đó, TKP đã dẫn dắt khá đông thành viên dòng họ trốn qua Lào, tìm về miền Nam Tự do, dù cuộc mạo hiểm đã gặp phải nhiều gian truân thử thách. Song Nhị tiếp tục sách đèn, xong cấp Trung học, tiếp lên đại học tại Sài Gòn, và luôn kiên định lập trường, xiển dương quan điểm quốc Gia thuần túy, đồng thời cảnh giác, đấu tranh với những tổ chức thiên tả trong khuôn viên đại học Vạn Hạnh.
Năm 1967, cuộc hội nghị tổ chức tại Đại học Vạn Hạnh, phe đăng cai, với tư cách Ban chấp hành SV chủ nhà gửi thư mời ban chấp hành bốn đại học bạn, gồm Tổng hội SVĐH  Saigon, ĐH Cần Thơ, ĐH Đà Lạt, và ĐH Huế.  Thư mời do Chủ tịch Ban Chấp hành SV Vạn Hạnh ký tên. Song Nhị được thư mời ghi rõ tham dự với tư cách Trưởng Ban Báo chí. Chương trình nghị sự được thông báo trên thư mời có bốn điểm vắn tắt:
1. - Thắt chặt mối giao hảo giữa sinh viên các đại học
2. - Trao đổi các đề án giáo khoa
3. -Trao đổi báo chí
4.  - Tổ chức giải thể thao SV liên Viện hằng năm.

Đúng 8 giờ sáng, trong phòng họp đã đủ mặt phái đoàn các ĐH Huế, Cần Thơ, Saigon, Đà Lạt. Chủ tọa đoàn được Ban tổ chứ đề cử bằng cách giơ tay tán thành đơn giản, chẳng có ai nghi ngờ. Phe chủ nhà là SV Vạn Hạnh đã kết hợp từ trước với nhóm SV Hồ Hữu Nhật, chủ tịch Tổng hội SV Saigon. Khi buổi họp chính thức vào nội dung thảo luận, chủ tọa đoàn đã làm cho hầu hết tham dự viên vô cùng sửng sốt khi tuyên bố nghị trình thảo luận gồm có:

1. Nhận định và thái độ của SV trước hiện tình đất nước.
2. Đòi hỏi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc miền Bắc và chấm dứt can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt nam
3. Yêu cầu Thiệu Kỳ từ chức.
4. Công nhận Mặt trận giải phóng miền Nam như một thực thể chính trị.

Cả phòng họp nín thinh, mọi người im lặng như để dò xét phản ứng của nhau. Một không khí khá nặng nề. Mới khoảng vài mươi phút trước đó còn tay bắt mặt mừng, bá vai bá cổ, đến lúc bấy giờ là ngờ vực, xa cách, thủ đoạn. Và từ giờ phút đó, phòng họp bắt đầu hình thành hai phe: Phe Tả và Phe Hữu.
Nhóm SV phe Hữu mạnh mẽ yêu cầu hủy bỏ nghị trình chính trị, trở lại nghị trình văn hóa, thể thao như đã ghi trong thư mời họp; đồng thời bày tỏ thái độ bất tín nhiệm đối với chủ tọa đoàn. Tuy nhiên vì thiểu số, so với đám sinh viên thuộc các phái đoàn không bày tỏ thái độ lập trường và số sinh viên phe tả áp đảo nên cuộc thảo luận vẫn được tiếp tục.
Đến trưa, nhóm sinh viên phe Hữu bỏ phòng họp ra ngoài để phản đối. Phe tả không ngờ và không kịp đối phó.  Cuộc tranh luận gay go từ 8 giờ sáng đến hơn 10 giờ đêm mới đúc kết được một bản tuyên bố chung chỉ có chữ ký của ba trưởng phái đoàn: Sài Gòn, Vạn Hạnh, Huế.
Cũng trong năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích tết Mậu Thân, nhóm SV thân cộng tại Vạn Hạnh tổ chức bầu Ban chấp hành Tổng hội SV mới. Phe tả gồm SV thân cộng, liên danh I. Phe hữu liên danh II do Song Nhị phối hợp điều động.
Kết quả kiểm phiếu, Liên danh II chỉ hơn 1 phiếu. Ban tổ chức bầu cử tìm cách trì hoãn công bố kết quả chính thức. Vài hôm sau, họ tuyên bố Liên danh II hơn một phiếu, nhưng là “phiếu bất hợp lệ”.
Liên danh II khiếu nại lên Hội đồng Viện, nhưng không được trả lời.. LD II bèn trương biểu ngữ, xếp hàng trước hành lang viện Vạn Hạnh, tuyên bố tuyệt thực vô hạn định. Sau ba ngày tuyệt thực, thầy Viện trưởng Thích Minh Châu từ trên lầu xuống nói với SV của thầy: “Thứ bảy này có phái đoàn người Mỹ và tổ chức Asia Foundation đến thăm trường, vì danh dự, thầy đề nghị ngưng tuyệt thực, giải tán, sáng thứ hai thầy sẽ giải quyết theo nguyện vọng. Nhưng tuần sau Hội đồng Viện thông cáo hủy bỏ kết quả bầu cử. !

Sau khi thất bại công tác “Hội nghị hiệp thương” và bầu cử tại Vạn Hạnh, “Đêm Quang Trung” đốt lửa trại phải dời từ Vạn Hạnh sang trường Quốc Gia Hành Chánh cũng không đạt kết quả nào, và mục tiêu “Tổng công kích nổi dậy” Tết Mậu Thân hoàn toàn bị vô hiệu hóa.
Đám SV cán bộ Thành đoàn cộng sản Saigon - Gia định và nhóm thiên tả không nắm được Ban chấp hành Tổng hội SV Vạn Hạnh, họ cay cú mất quyền lãnh đạo cả BCH tổng hội SV Saigon, Song Nhị trở thành mục tiêu nhắm vào của phe tả với các biện pháp – cách chức chủ bút Bán nghuyệt san Hướng Đi, gửi thư Nha Động viên Bộ Quốc phòng nhằm thu hồi chứng chỉ hoãn dịch của Song Nhị, và có những đe dọa khủng bố trc tiếp vào bản thân Song Nhị.

Với quan điểm, lập trường Quốc gia rõ rệt, Song Nhị đã tham gia tranh đấu khéo léo nhưng không khoan nhượng, từ kinh nghiệm thu nhận qua quá khứ, và dù với cương vị, hoàn cảnh nào, sứ mạng chống độc tài cộng sản cũng được nêu cao.

Tháng Tư 1975, định mệnh miền Nam đã an bài, Song Nhị cũng chịu chung số phận lưu đày ra đất Bắc cùng với hàng vạn chiến hữu VNCH.

Anh vẫn là người tiên phong với ý thức phản kháng của một tù nhân, một nhân chứng, đồng thời là người cầm bút. Trong trại tù tỉnh Thanh Hóa năm 1980, khi có ba người bạn tù bị bắt đi trong giờ điểm danh vào phòng giam, khí thế sôi động hơn 700 bạn tù toàn trại, mỗi phòng tụ họp nhau hát những bài hát tranh đấu. Lúc đầu chỉ một tốp hợp ca, về sau hưởng ứng cả buồng thành một đại hợp xướng.. Dấu hiệu đấu tranh bắt đầu. Sau ba ngày, lực lượng công an tràn vào trại, mở cửa phòng giam, đọc lệnh, còng tay và trói dẫn đi biệt giam một số. Và Song Nhị là một, bị kiên giam trong sáu tháng.

Song Nhị, người đấu tranh đã trở thành người cầm bút, và là người cầm bút từ những cuộc đấu tranh suốt quá trình dài từ niên thiếu đến trưởng thành...

Anh viết khá nhiều, đủ thể loại, từ Thơ, Truyện, đến phiếm luận, phê bình.. Tác phẩm “50 Năm Cầm Bút” của một tác giả đã sống và viết, là nạn nhân, nhân chứng của chặng đường lịch sử đất nước, không chỉ mang giá trị nội dung rõ nét, còn biểu lộ tư duy và cốt cách của người viết. Song Nhị khát vọng nói lên Sự Thật, vì anh ý thức thiên chức và phẩm hạnh của người cầm bút trong thế giới Tự Do, khác hẳn với “bồi bút” của chế độ độc tài Cộng sản.
Viết lên sự thật và dám nói sự thật, không dễ dàng, đơn giản, nếu thiếu lý tưởng, ý chí và chẳng bao giờ dám vượt qua chính mình.

Sự thật, tiếng gọi từ lương tri người cầm bút – Nếu anh không dám nói sự thật, thì sự thật vẫn đeo duổi anh và đòi hỏi anh phải thực hiện. Nếu lịch sử hôm nay chưa nói hết sự thật, thì thế hệ tiếp theo sẽ nắm tay lịch sử và chỉ cho bằng được ngày mai.

Người cầm bút kiên định, vô tư, không thành kiến cũng không thiên kiến. Lẽ phải trên hết, không khuất phục trước một áp lực nào; cũng không dễ ngã vào vòng quyến rũ cơ hội.
“50 Năm Cầm Bút” thể hiện, bày tỏ trung thực nhiều vấn đề hôm qua và hôm nay, văn hóa và văn học. Hy vọng bạn đọc tiếp cận tác phẩm để cùng cộng hưởng, chia sẻ với tác giả.

Diên Nghị/ 17/4/2016


Wednesday, April 13, 2016

VỀ ĐÂU ĐI ĐÂU


















Dấu vết cuộc Nội chiến Bắc Nam.
Đồng Lộc, Hà Tĩnh 2009. Ảnh SN
Khi Ra Khỏi Cổng Rừng


Khi ra khỏi cổng rừng
đời đã qua những lộ trình trùng điệp
rừng núi Bắc Nam
mấy trăm lần chiều dài đất nước
nối những tháng năm
khổ nhục lưu đày
kẻ khuất người còn
như một rủi may
rải rác ven rừng
những nấm mồ đâu đó

Khi ra khỏi cổng rừng
dĩ vãng mịt mù vây tỏa
quá khứ chất chồng xương máu của cha anh
tôi đóng góp được gì ngoài nỗi ăn năn
Ngó lại
Buồn
Và tủi nhục
nỗi đau như cắt xé thịt da người
đất nước về đâu sau thế kỷ Hai Mươi

Khi ra khỏi cổng rừng
tiếng gọi thiêng liêng bồi hồi tâm tưởng
tôi ngoảnh lại đứng nhìn
bồn chồn trăn trở
đau buốt từng ước vọng niềm tin

Việt Nam ơi
nhân loại năm hai nghìn
tôi cũng là người Việt
về đâu
đi đâu.
           
Song Nhi, Sài Gòn 1985

***

BẢN ANH VĂN

WHITHER VIETNAM

When getting out of the forest gate
Life's passed on immense journeys
The wilds from North to South
Hundreds of length of the country

Connecting the years of excruciating humiliation
In far-away-camps of concentration
The ones who've survived
The ones who lost their lives
Of luck or unluck
Scattered tombs somewhere in ranges of the wilds

When getting out of the forest gate
the dim and immense past surrounded
the past'd piled in heaps
with forefathers' and elders' bones
and blood 
what I’d made my contribution but repentences
I turned back and looked at with
feeling self-pity and shame
the pain and sadness as cutting through the flesh of human
what my country will be as the Twentieth Century ends

When getting out of the forest gate
the sacred call in heart and mind fretting
I turned round to stand seeing
to be on tenterhooks and toss about my native place
feeling great pain in each hope and sense of faith

Oh! Dear Vietnam
the humanity of the year 2000
I'm  a Vietnamese too
where will we be back?               
and where will we be on?

SONG NHỊ

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...