Về LốI ÐI XƯA
Toàn tập thơ Về Lối Ði Xưa của Song Nhị là một thi phẩm
Trữ Tình, là một bản tình ca đẹp nồng nàn muôn thuở của thi nhân.
Nói cho đúng thì thơ Song nhị có đủ mọi tính chất, mọi
khuynh hướng. Anh làm thơ và xuất bản rất nhiều từ lâu nay. Muốn nhận định về một nhà thơ nào, chúng ta phải đọc
thật kỹ tất cả các tác phẩm của họ. Có nhiều vần thơ hay, sâu kín của thi sĩ,
chúng ta không đọc hết mà cứ nhận xét nhận định.... thì là một sai lầm lớn. Tôi
không có thời gian, không còn bao nhiêu tâm huyết, sức lực để bàn về thơ cho
nên chỉ nói về cảm tưởng của mình ít nhiều về Song Nhị. Rồi đây các trang thi
sử, các sách viết về thi nhân, thi ca người ta sẽ nói đến Song Nhị đầy đủ hơn.
Nay xin bàn ngoài lề một chút....
TRẦN
TUẤN KIỆT
Sài Gòn, 7 – 2006
**
TIẾNG
HÓT LOÀI CHIM DI
Từ thời thượng cổ, người Việt thờ chim Thần - Thần điểu.
Trong loại chim Thần đó có chim Trĩ Trắng là sứ giả văn hóa Việt. Việt Thường
Thị đem cống (trao đổi văn hóa) chim Trĩ Trắng và Rùa Thần. Trên mai rùa có chữ
Khoa đẩu của Việt tộc in rõ dấu tích, thần thoại về sự hình thành vũ trụ vạn
vật của Thần đạo chính thống Việt Nam. Ngoài ra Việt tộc thờ chim Lạc - Thần
điểu Việt. Sau này Đinh Tiên Hoàng lên ngôi lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Cồ là
đôi mắt lửa sáng rực của loài linh điểu. Truyền thuyết linh thiêng đó là tâm
linh muôn đời của người Việt tự ngàn xưa. Không phải vô tình mà người Việt ngày
nay hay nhắc tới loài Việt điểu. Thời Bách Việt, nước ta giòng Việt tộc đã cư
trú gần phân nửa nước Tàu ngày nay. Sau thời chiến quốc, giòng Bách Việt bị Hán
đồng hóa, còn lại giòng Lạc Việt anh hùng nhất loài Chim Việt kiêu hùng đó trải
qua muôn vàn gian khổ, máu xương giữ nước cho mãi đến ngày nay. Sự tích Chim
Việt đậu cành Nam
cũng ghi dấu ấn đau buồn của những người phải xa quê hương cội nguồn, tổ quốc.
Con Chim Việt khi bị đưa đi về đất Bắc đã chọn cành hướng Nam mà đậu mà
hót... Từ trong tiềm thức, thần thức Việt đã có bóng dáng chim linh vì thế mà
kẻ tha hương bốn bể không phải vì vô tình mà than mà thốt lên lời ai oán. Tinh
thần đó, tâm linh đó lại bắt đầu vọng lên âm hưởng của loài chim Việt cành Nam
xưa. Khắc khoải sầu đưa giọng lẳng lơ. Ấy hồn Thục đế thác bao giờ. Năm canh
máu chảy đêm hè vắng. Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ (Nguyễn Khuyến).
Đến nay thì giòng lịch sử đen tối của loại ma quỷ ý thức hệ
vong thân khiến người Việt lại một lần lưu vong, hằng hà sa số, hằng triệu
người Việt lại bỏ quê hương trên những nẻo đường Thủy Mộ Quan (Viên Linh) để đi
tìm tự do, lẽ sống nhân đạo hơn, ở đất nước người - Tiếng Hót loài Chim Di -
chim Việt của Song Nhị lại một lần lên tiếng u hờn khắc khoải làm động lòng
người, chấn động tâm can, tâm linh và nghĩa khí hào kiệt của dân tộc Việt ở bốn
phương trời, gợi cho lòng kẻ sĩ phương Nam dấy lên những hoài vọng, hoài bão
lớn lao, một ý thức về trách nhiệm của người trí thức về lịch sử của thời đại
mình phải làm gì để giành lại quê hương, giữ lại tinh thần và đạo lý Việt, để
thể hiện cái tự-do tuyệt đối của đời mình. Và, nói như Khổng Tử “uy vũ bất năng
khuất” - nói như Nguyễn đức Quỳnh “tư tưởng bất năng hoặc” trước loại “Cùm Đỏ”
của bạo lực phi nhân tham tàn này.
Tiếng Hót của loài Chim Di đã lên tiếng nhiều lắm, rất hàm
xúc nhiều điều mà ở tại quê hương này khó lòng người dân nói được.
Viết đến đây tôi bồi hồi nhớ đến bao người bạn đã ra đi rời
xa tổ quốc. Tôi nhớ đến bao lần nghe những con Chim Việt lên tiếng hót thần kỳ
ở khắp mọi nẻo đường tha hương biệt xứ. Và ao ước tất cả những người xa xứ trở
về trong bản Anh hùng ca độc lập tự do muôn thuở tại quê hương mình.
Những con Thần điểu Việt nay ở phương trời nào?
Trên núi cao có con Thần điểu
Ba năm thu cánh không tiếng kêu
Ngày hận mây mờ che bóng lửa
Đêm hờn thơ lặn rải sườn rêu
A ha! Thần điểu còn nương náu
Chờ ngày thét nở núi khe sâu....
Con Thần điểu bay về đâu từ ngày núi non thay trời đổi chủ,
trở thành hình bóng chim Việt cành Nam ở tận phương trời hải ngoại
nào. Tôi có cảm tưởng đầu tiên như vậy khi đọc “Tiếng Hót Loài Chim Di” của
Song Nhị, có lẽ tập thơ này là tập thơ “gay cấn” nhất của Song Nhị đây - nói
như giọng của thi sĩ họ Bùi. Đối với họ Bùi, chuyện gì ghê gớm lắm đều dùng chữ
“gay cấn” này mà diễn tả ra cho nó có vẻ... chịu chơi một chút. Sự điêu linh
nào đã tạo cho Song Nhị viết tập thơ gay cấn này đến thế. Điêu linh đó thuộc về
bi kịch đồi tranh “Hãi hùng bi kịch đồi tranh!” (B.G) của dân tộc Việt. Ai cũng
biết là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa Quốc Gia Tự Do và Độc tài đảng trị Cộng
Sản. Và điêu linh nhất phe Tự Do thất bại để đất nước rơi vào tay giặc Cộng
khiến ta nhớ đến từ Nguyễn thái Học, Nguyễn tường Tam - Ông, trước khi tự vẫn,
còn kịp ghi: “Anh em Ngô đình Diệm phải chịu trách nhiệm để nước mất vào tay
Cộng Sản” - cho mãi đến ngày nay một bức màn vô hình phủ khắp non sông bằng sự
dối trá tham tàn, tội ác và tham nhũng, tất cả đều được tẩy não bằng nhục hình
bạo lực cho đến tận vô thức, tiềm thức tim óc của dân tộc. Mà tiếc thay một số
người Việt hải ngoại quá vô tình, vô ý không nhìn thấy rõ được. Đình miếu thần
linh đất Việt, chùa chiền, nhà thờ đều sống trong vòng vây ý thức hệ Xã Hội Chủ
Nghĩa - đường lối tư tưởng văn hóa, nghệ thuật đều thoát thai từ trường trại Xã
Hội Chủ Nghĩa. Và tất cả đều là một lũ văn nô cả đến Hoàng Cầm ngày nay cũng
không hơn gì Phạm Duy, hay Trịnh Công Sơn trong chiến lược văn hóa Đảng cả.
Ngày đêm bọn giáo sư Hoàng như Mai, Trần Bạch Đằng, Trần
trọng Đăng Đàn và lũ văn nô Bắc Việt ra sức đánh phá văn nghệ miền Nam tự
do một cách điên cuồng u mê ám chướng... đến khôi hài! Tất cả chỉ vun hồi cho
cái gốc đại thụ tham nhũng ngu dân để bảo vệ cái tổ quốc non sông mà bọn Mông
Cổ này mới cướp được để phụng thờ Mác-Lê.
Nước mất nhà tan! Xưa nay cũng thế thôi! May ra thân phận
và đời người còn được ra khỏi cái màn ma quỷ của Xã Hội Chủ Nghĩa - để sống lưu
vong trong sự tự do quí báu nhất của cá nhân mình, dù thế nào đi nữa còn hơn
vạn lần anh em mình ở lại, để hằng ngày chạm mặt với kẻ thù luôn khủng bố quanh
mình loài chim Việt đó cũng có ngày quay lại. Chờ ngày thét vỡ núi khe sâu. Và
anh em ta không có quyền nỉ non than vãn nữa. Tôi còn nhớ mấy vần thơ của ông
Lam Giang Nguyễn trang Trứ dịch:
Đại Vương cờ phất ải xa
Ngậm ngùi thấy bạn đã là quỷ oan
Bừng sôi máu hận muốn tràn
Vần thơ mọn có muôn ngàn kiếm đao!
Hồ Hữu Tường hay Vũ Khắc Nam hay nhiều vị văn hóa lão thành
từng nói. Thời đại chúng ta là thời Tân Xuân Thu - thời Chiến Quốc Mới - những
con chiến mã vẫn còn đất tung hoành. Sức kiệt hơi tàn thì chiến đấu bằng văn,
có tiền của thì chiến đấu bằng kinh tế tự do, bằng tất cả mọi thứ gì ta có
được, thời thế Xuân Thu mà - Gặp thời thế thế thời phải thế! Trong trần ai ai
dễ kém ai!
Đừng quên Chim Việt đậu cành Nam, bao giờ chân lý và nhân nghĩa
cũng thắng bạo ngược tham tàn, tinh thần dân tộc Đại Việt còn đó. Bản anh hùng
ca bất tử vẫn còn đúng, thì người tự do Quốc gia làm văn hóa đã thắng Cộng từ
lâu rồi. Bọn Cộng Sản làm gì có văn hóa mà nói đến chen vai thích cánh với
chúng ta được phải không anh em!
Bây giờ thì mời quí bạn yêu thơ, cùng tôi đọc những vần
thơ, đúng nghĩa chân tình của nhà thơ Song Nhị gởi đến bằng hữu bốn phương và
“Quê hương yêu dấu” của chúng ta - chúng ta không khóc lên vì quê hương nữa,
như cô gái trong thơ Hoàng Trúc Ly độ nào:
Những người xưa đi rồi không trở lại
Một mình tôi lại gặp một mình em
Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm
Em không khóc - mắt buồn ươn ướt đỏ!
Hoàng Trúc Ly
Ta hãy bắt đầu từ “Tiếng Hót loài Chim Di” để rồi chuyển âm
nó thành những âm điệu cuồng phong thác lũ của mối Hờn Chiến Mã trên bãi sa
trường vẫn còn đầy đủ khí độ anh hùng của những Chàng Trai Đất Việt (Nguyễn
Vỹ). “Tiếng Hót của loài Chim Di” còn là tiếng hót của thơ, của kỷ niệm êm đềm,
của cuộc tình nồng ấm của men tình đầy hoa trái ngọt có thủy có chung!
Thời thế này mà con người còn giữ được những thủy chung và
kỷ niệm thì thật là hạnh phúc, đó là nhà thơ Song Nhị đấy bạn ạ! Chàng là một
Gérar de Nerual của chúng ta đấy.
(Trích bài Tiếng Hót Loài Chim Di trang 13, 14, 15, 16)
= VIỆT THẦN
****
- Sự Điêu Linh Nào Đã Tạo Nên TIẾNG
HÓT LOÀI CHIM DI
- Chất Trữ Tình Say Đắm Trong VỀ
LỐI ĐI XƯA
- Bản Trường Ca Lịch Sử Dân Tộc Nối
Dài Trong TIẾNG HỜN CHIẾN MÃ
TIẾNG
HỜN CHIẾN MÃ
Một vài
lần Bùi Giáng viết “Có người con gái chửa hoang. Để chàng thi sĩ lang thang
suốt đời.”
Cũng có
một lần tôi gởi Lê Nguyên Đại một bài thơ ngắn tặng anh có bốn câu:
Thơ văn
tải đạo đến bao giờ
Tải đạo mà
ra thực tải thơ
Thơ gởi
mười phương trong nếp gấp
Cõi đời hư
thực, huyễn hay mơ!
Cái cõi
đời hư hư thực thực đó thì cần gì thi sĩ phải “dấn thân” vào đấu tranh cách
mạng, cần gì phải lo cho vận mệnh đất nước, dân chủ pháp trị hay độc tài đảng
trị? Làm gì có tổ quốc, nước non, cội nguồn chủng tộc, hư thực, huyễn hay mơ đó
làm gì có tinh thần nhân bản tốt tươi hoa lá cành như anh bạn tôi cứ khư khư
bênh vực và thích nó khi tôi đề tựa thơ cho anh tơ lơ mơ thì anh sửa lại là
tinh thần nhân bản trong thơ anh! Cái nhân bản kỳ cục đó đối với thi nhân thì
lạ lẫm làm sao, đảo điên làm sao ấy! Nhất là cái nhân bản ấy nó theo súng đạn
bom và các chất độc rải khắp thế gian này.
Vì vậy mà
tôi thích đi tìm các vần thơ của bè bạn những câu thơ nào ra khỏi cái nhân bản
thuyết, cả cái siêu hình học Đông Tây để phục vụ cho nó các câu thơ nào vô
tư... (tức là không có tư tưởng) nhất là các câu thơ còn nguyên vẹn cái bản
chất tự-nhiên ố nhất là tính-dục như các câu thơ của Ôn Như Hầu “cỏ cây cũng
muốn nổi tình mây mưa” hay hơn nữa - Các câu thơ của Hồ Xuân Hương nồng đặc mùi
luyến ái chân thực của cái tính tự nhiên loài người. Thiếu nữ nằm chơi quá giấc
nồng. Yếm đào để lộ dưới nương long... Tuyệt vời hơn gấp nghìn lần Hữu Thể và
Thời gian của Martin Heidegger hay Tư Bản luận của K.Mars. Thật buồn cười, có
lần tôi đọc tác phẩm (!)của một ông Tiến sĩ xã hội học Liên Xô tiên đoán rằng
“Tư Bản đang dãy chết” - chẳng bao lâu thì Liên Xô sụp đổ! Sách vở có khôi hài
không?
Thôi đi
thi nhân! Cõi bờ của thực tại trần gian, tổ quốc này không phải của ta đâu, bọn
bị đời coi là điên, là ngông cuồng ngạo mạn, khinh thế ngạo vật, và đủ thứ xà
bần của tâm lý con người. Chúng ta cần gì phải có một Tinh Cầu Mơ Ước như Trần
Dạ Từ! Bởi vì có một tinh cầu nào thực sự cho cái mộng tưởng viễn lưu đó...
Chúng ta
hãy vùi đầu vào với cái ta thích đó là thân xác đam mê, quên ngày quên tháng
của nhục thể đàn bà! Như một Nguyễn đức Sơn với Đêm Nguyệt Động, như các bài
Thần Thi của Trần Nhựt Tân, và đừng để cho cơn buồn lạnh chết người chi phối
tâm linh ta như một Viên Linh với Thủy Mộ Quan, một nỗi tủi hận như Phạm Tường
với Gõ Thức Chân Mây...
Ồ! Có lẽ
tôi lạc dòng khi muốn nói đến thơ của một người bạn, đó là thơ của anh Song
Nhị. Trong tập Tiếng Hờn Chiến Mã có những bài rất thơ của Song Nhị. Xin trích
ra đây
1. Đàn
Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng
Hoang
(trang 50)
2. Gởi
Người Dưới Trăng (trang 60)
3. Từ Cõi
Hồng Hoang (trang 64)
Sau khi
anh Nguyễn Mạnh Côn viết “Đem tâm tình viết lịch sử” - Tiếng Hờn Chiến Mã của
Song Nhị hay văn thơ của Diên Nghị, Phương Triều, Trần Hoài Thư, Bùi Ngọc Tuấn,
Phạm Tường, Nguyễn Tôn Nhan... cũng như tác phẩm của nhiều chiến binh khác, làm
nối dài thêm bản Trường Ca bất tận của lịch sử dân tộc Việt Nam trong thời hiện
đại.
4. Mưa
Trên Đồi Cao Su (trang 138)
5. Ý Xuân
(trang 140)
6. Viết
thư cho vợ (trang 143)
7. Bắt đầu
một ngày (trang 144)
8. Người
lên đỉnh núi (trang 147)
9. Bài
sinh nhật (trang 148)
10. Hai
mươi sáu (trang 150)
11. Từ đó
tình yêu (trang 153 - 154)
12. Khi
tôi về (trang 159 - 160)
Đây chỉ là
một ít bài trong Tiếng Hờn Chiến Mã mà cơn gầm thét của con Chiến Mã Song Nhị
bớt tung hoành vì “Nợ Nước Thù Nhà” để cho quả tim bốc lửa của mình nói lên
tiếng nói của Nữ Thần Tình Yêu đang dấy lên từ cõi tâm linh sâu kín nhất của
thân xác con người.
Tôi trích
dẫn để bạn tri âm cùng đọc và cảm thông với tâm tình viết lịch sử tình yêu của
nhà thơ này vậy.
SA GIANG
***
No comments:
Post a Comment