Một Hành
Trình trong thơ Song Nhị
NGUYỄN THÙY
Ra đi điều biết tự trời
Ra đi cần thiết cho đời nhân gian (1)
(Parting is all we know of heaven
And all we need of hell )
(Emily Dickinson)
Hai tập thơ 'Tiếng Hờn Chiến Mã” và “Về Lối Đi Xưa” cùng một
số bài trên giấy rời của Song Nhị đến với tôi hôm nay. Đọc thoáng qua một số
bài và tên hai tập thơ, nhất là tựa đề tập thứ hai, cảm giác đầu tiên của tôi
là hầu như thơ Song Nhị luôn chập chờn, lãng đãng những 'Đi', 'Về' 'Đến', 'Ở' khiến tôi liên tưởng đến lời thơ
Emily Dickinson trích ở trên (1).
Chiến mã lẫy lừng bao chiến trận
Đã đi là quyết một lần đi
(Tiếng Hờn Chiến
Mã)
- Thì thôi, lòng hãy quên đi vậy
Đi, Ở, Về, Đi. Cũng số phần…
- Mai kia nếu phải ra đi nữa…..
Nếu phải đầu thai một cõi nào
(Về đây –
VLĐX)
Ta về phố xá thời ma đạo
tìm thấy hồn ta trong cổ thi…
(Tìm Lại Hồn Ta -
THCM)
Toàn thể thơ Song Nhị qua số thơ tôi nhận được, theo tôi,
tập trung vào từng chặng 'Đi, Đến, Ở, Về'
nầy. 'Đi' là 'ra đi'; 'Về' là 'trở về, về lại'; 'Đến, Ở' là 'ngụ cư nơi
đất khách, quê người'. Điều nầy bàng bạc hầu hết nơi thi ca người Việt hải
ngoại nhưng nơi thơ Song Nhị đậm nét và rõ ràng, súc tích không riêng nơi một
số bài mà trở thành đề tài và chất liệu trong thơ anh. 'Đi, Đến, Ở, Về', những
động từ thường xuất hiện trong thi ca, vẽ lên hành trình một kiếp sống, một
thân phận; chân dung một lẽ đời với bao buồn, vui, khổ, sướng, phiền muộn, ưu
tư, hân hoan, phấn khởi…., tất cả cảnh ngộ và tâm trạng con
người trong vận hành lịch sử nhân sinh.
Cuộc chiến tương tàn dưới đủ mọi nhãn hiệu nhân danh, trên
hai mươi năm lẻ đã cày nát hình hài, da thịt, óc tim đất nước và con người Việt
Nam.
Không cần thiết phải xác định ở vị thế nào – bên nầy hay bên kia chiến tuyến,
địch, thù, ta, bạn - để nhận định, đánh giá ngay gian, phải trái về phía nào -
điều nầy mọi người đã nói, đã viết và lịch sử đã đề cập cũng như đang còn và
sẽ xét
soi - Cái oái oăm, ngược ngạo, bi đát, phi lý và hài hước chưa hẳn ở nơi
cuộc chiến mà chính ở lúc đã 'hòa bình', lúc cuộc chiến đã tàn,
đã ngã ngũ, đã kết thúc thắng
bại, hơn thua'.
Hòa bình', danh từ đẹp quá đi thôi! Ấy thế mà, tiếng súng
vừa ngưng, hàng trăm ngàn người đã phải 'trốn chạy hòa bình'! Và, liên tiếp sau
đó, hàng triệu người khác, đủ mọi thành phần, có cảû những kẻ từng muốn mong,
khao khát hòa bình và náo nức mừng vui đón chào ngày 'thống nhất hòa bình' lại
phải lo toan, tìm mọi cách để 'đào tẩu hòa bình' dù biết có phải chết nơi rừng
sâu, biển cả (hàng trăm ngàn người đã chết rồi!).. Ngay bây giờ, nếu có cơ hội,
chắc cũng lắm người tiếp tục 'trốn chạy hòa bình' sau trên hai mươi năm 'hưởng
thụ hòa bình'! Và cũng một số người bên phe 'chiến thắng', cùng thân nhân, con
cái họ cũng đã 'đào tẩu hòa bình', tìm cách 'ty nạn hòa bình' mỗi khi ra nước
ngoài hay không trở về lại nước sau thời gian tu nghiệp, du học nơi các 'đế
quốc đầu sỏ' mà họ đã từng nhiếc mắng, lên án không tiếc lời.
'Trốn chạy hòa bình', nghe ra ngược ngạo, khiên cưỡng, trái
tai, thế, nhưng cả thế giới năm châu, cả cơ sở quốc tế toàn cầu – Liên Hiệp
Quốc - đều công nhận qua danh xưng hợp pháp 'tỵ nạn chính trị' và hao tốn bao
nhiêu sức người, sức của, thiện chí, tình thương đùm bọc, chở che. Một thứ 'Hoà
bình' nghiệt ngã, hòa bình trong máu và nước mắt, trong xiềng xích, tù đày,
trong thân phận khổ sai, nô lệ!
Một tình cờ hay oái oăm lịch sử hay một sắp đặt ẩn mật trớ
trêu của dòng Sử Mệnh Việt Nam ra ngoài dự liệu của con người đã đẩy đưa đất
nước đành lòng phó thác hàng triệu đứa
con yêu quí phải 'trốn chạy hòa bình',
xa rời khúc ruột thân thương, bơ
vơ nơi xứ lạ, lạc loài, hiu hắt,
buồn đau, để làm gì? Lịch sử sẽ trả
lời. Thơ văn người Việt hải ngoại đã ít
nhiều nhìn ra. Và, hơn ai hết, Song Nhị đã nhìn ra và đấy là những quặn
đau cùng ước vọng nơi tâm thức qua cái 'Đi, Đến, Ở, Về' nơi các thi tập của
anh.
'Tiếng Hờn Chiến Mã' - động lực 'Ra đi''
'Tiếng hờn”: hờn buồn, hờn tủi, hờn giận, hờn căm không hẳn
là thù hận: hờn thời đại, hờn lịch sử, hờn tủi phận mình.
- Người rã ngũ rồi non nước đâu
tim ta máu đọng khối thâm sầu
hỡi ơi, trời đất cùng rơi lệ
trang sử lật rồi cuộc biển dâu!
(Ta Gục Giữa Hồn
Ta)
- Một phần tư thế kỷ
Tiêu ma trong một ngày
Ngày rừng thiêng bão lộng
Đàn chim vỗ cánh bay
Ôm gia tài lịch sử
Ngậm lá bùa thiên di
Trên nhánh đời chập choạng
Ngồi hót thời biệt ly
(Chặng Hai Ngàn
Thời Chim Di Việt Nam)
“Cuộc biển dâu”. Vâng, một cuộc biển dâu. 'Trải qua một cuộc
biển dâu”, Trăm điều thấy, nghìn điều đau não nề, Dân tộc đó, tỉnh mê mê tỉnh,
Giang san đây, gan tím tím gan, Ba mươi tháng Tư bảy lăm… ! 'Trang sử lật rồi',
lịch sử chấm dứt những trang đời chiến tranh thê thảm để lật sang những trang
đời 'hòa bình' bi đát, nham nhở, điêu linh! Ôi, Hòa Bình!
Nỗi tủi hờn theo sát lưng chiến mã. Chiến mã, con ngựa
chiến, ngựa trận, ngựa sắt của Phù Đổng, ngựa Xích Thố của Quan Vân Trường,
ngựa Ô Truy của Hạng Võ, ngựa Bạch Mã của César, ngựa Long Mã đã đưa thầy trò
Đường Tam Tạng thỉnh kinh. Ngay cả những con ngựa đá điện Chiêu Lăng, chân cũng
dính bùn vì như cùng xông pha ra trận đánh đuổi quân Nguyên đã là đề tài cho
hai câu thơ bất hủ của Trần Nhân Tông:
“'Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(đã có người dịch: Xã tắc hai phen bon ngựa đá, sơn hà nghìn
thuở vững âu vàng).
Chiến mã nơi thơ Song Nhị không là ngựa mà là “'ngưỡi cỡi
ngựa” tức người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong suốt cuộc chiến chống Cộng sản
xâm lăng. Đoàn chiến mã anh hùng đó đã phải bị 'ngã ngựa', đã phải bị bắt buộc
buông súng, buông gươm, phải nhận chịu bại trận theo 'mệnh lệnh' đầu hàng:
Kim cổ đông tây hề! Chiến mã
ào ào ngọn vó hề! Sa trường
bao phen đất dội trời rung chuyển
chiến mã dọc ngang hề! tứ phương
Chiến mã lẫy lừng bao chiến trận
Đã đi là quyết một lần đi
Giang sơn, tổ quốc, lòng trung nghĩa
Một phút, thôi đành! Lẽ thịnh suy....!
Không riêng 'đoàn chiến mã' mà gần cả hai mươi triệu nhân
dân Miền Nam, từ ngày đó, cũng ôm 'hờn chiến mã' như Song Nhị, cũng phải 'một
phút, thôi đành! Lẽ thịnh suy'. Người 'chiến mã' Song Nhị đã ngã ngựa, đã phải
nhận chịu thất bại, không do mình mà do từ những lý do đâu đâu; nói chung Song
Nhị đã phải đứng chung trong hàng ngũ 'phải chiến bại' (!).
Có những thất bại rất kiêu hùng dù thất bại vốn không hàm
chứa kiêu hùng, và không ai, ít ra tự khởi đầu lại đi tìm kiêu hùng trong thất
bại. Cái thất bại của phong trào Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,
Trương Công Định, Thiên Hộ Dương, của Nguyễn Thái Học, của Phan Bội Châu… là
những thất bại kiêu hùng. Cái thất bại của Imre Nagy xứ Lỗ Ma Ni trước đoàn
quân xâm lăng của Liên Xô (thời Nikita Kroutchev) là cái thất bại kiêu hùng.
Cái thất bại của Miền Nam Việt Nam
trước cuộc xâm lãng vũ trang của Cộng sản là một thất bại kiêu hùng. Vì thế,
thất bại mà không nhục. Cái 'nhục' không ở nơi 'đoàn chiến mã' mà do từ 'Trang
chiến sử đồng minh cờ giũ cuộc, Nửa sơn hà nghịch lũ cuốn trôi phăng' (Vẫn đợi
mùa Xuân – THCM), do từ những lãnh đạo nhiều tham vọng mà bất tài, không tư
cách cho dù trong 'thế chẳng đặng đừng', cho dù bị ép vào 'đường cùng, thế bí'
thì ít ra cũng phải biết 'tự trọng', phải giữ được ít nhiều cái hào khí hùng
anh của dân tộc như một Trần Bình Trọng, một Phan Thanh Giản, một Hoàng Diệu,
một Nguyễn Tri Phương,… xưa kia hay như một Lê Văn Hưng, một Nguyễn Khoa Nam….
trong ngày toàn dân 'ngã ngựa'). Cái 'nhục' còn ở ngay cả bên 'chiến thắng' do
từ cái 'Hòa bình' mà họ đem lại cho cả nước, đúng hơn là họ áp đặt, bắt nhân
dân phải gánh chịu. Cái thất bại của Song Nhị và của bao nhiêu chiến hữu như
anh không nhục mà kiêu hùng. Vì thế, anh chỉ 'hờn' mà không nhục. Cái 'thất bại
kiêu hùng' đó theo anh mãi mãi:
Sá chi sinh mạng thời binh lửa
thì tiếc gì thân buổi bại hàng
lê gót xích xiềng thời đại cổ
ngậm ngùi chiến mã bước hiên ngang
Bước đi trên nỗi buồn hoang phế
Trên những cỏ cây cúi gục nhìn
Trên những vệ đường người lạnh cóng
Những hàng đinh nhọn cắm xuyên tim
"Sinh mạng thời binh lửa", coi nhẹ như "hồng
mao" thì "buổi bại hàng’ tiếc thương gì "thân tứ đại". Mặc
kẻ thù dày xéo, vẫn cứ hiên ngang dù có ngậm ngùi cho thân thế. Đoạn thơ cho
thấy nét kiêu hùng cùng ý chí kiên cường của kẻ trượng phu giữa bao nhiêu
nghiệt ngã còng lưng gánh chịu. 'Bước hiên ngang giữa những ngậm ngùi', ngậm
ngùi cho cả một thời đại, cho cả loài người bày 'lối chơi hoang trò dã thú';
ngậm ngùi trước oan khiên của hồn sông núi gánh nặng trên vai oằn; trước cảnh
'nghịch thường' của đoàn chiến mã giờ đây phải ra sức nhọc nhằn 'xô trái núi' không
để dựng xây công ích cho dân mà chỉ để 'dựng xà lim' giam nhốt con người:
Ở đây trời đất vừa thu lại
còn một vòm đen chứa thế gian
và cả loài người như đổi lốt
bày trò dã thú lối chơi hoang
Tôi tưởng như mình vừa sống lại
Tự nghìn kiếp trước nối oan khiên
Oằn lưng gánh lấy hồn sông núi
Hiu hắt trong lòng đóm lửa thiêng
Tôi đi núi đổ đè thân phận
Đá cứa vai trần máu rướm tim
Cả một đoàn người xoay trái núi
Dời non chuyển đá dựng xà lim
(Tôi Đi Giữa Đoàn
Tù Vác Đá – THCM )
'Tiếng hờn chiến mã' không phải để 'mím miệng, cắn răng'
gượng nuốt nghẹn ngào, đau khổ vì hoàn toàn bất lực trước nghiệt ngã, không là
thái độ 'so gan' trước kẻ thù hoặc cam phận chịu đựng; ngược lại, với Song Nhị,
với những người như Song Nhị, 'tiếng hờn chiến mã' chính là để
thách thức gian nguy, để nhìn ra mình, ra người, ra cuộc cờ dâu biển,
để 'hờn' mình không tròn nghĩa vụ, từ đó hướng đến một nghĩa vụ mai nầy phải
gánh vác khởi đi từ 'tiếng hờn', tữ những đau buồn, mất mát cùng những bức bách
của lịch sử hôm nay:
Dưới vòm đen nộ khí
đàn ngựa đứng nhìn lên
nhớ đường xa dong ruổi
mang tội hình không tên
Ngày từng ngày lửa nắng
đốt cháy cánh đồng hoang
đốt trên làn da thịt
đốt trên nổi cơ hàn
đốt sao được tim óc
đàn ngựa hồng bất kham
(Đàn Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng Hoang -THCM)
để 'trước họng súng trước lưỡi lê. Cùm kẹp, từng nụ cười vẫn
nở rất tươi' (Một tù khúc cho em- THCM) vì luôn luôn nuôi dưỡng:
ta chờ xóa vết chân hoang
về đem huyết sử viết trang chuyện đời
ta chờ người lại với người
xóa tan huyền thoại những lời võng ngôn.
(Từ Cõi Hồng Hoang
– THCM)
Cái 'chờ mong' đó được nung nấu từ 'Tiếng hờn chiến mã' hôm
nay để tự thâm tâm vọng lên lời kêu gọi thắp sáng niềm tin. Chờ gì? Chờ
"xóa vết chân hoang" của bầy dã thú, chờ "người lại với
người" để bao huyền thoại mang đầy võng ngôn được xóa sạch cho trang
chuyện đời không còn những máu lệ tang thương, những trò mị dân, lọc lừa, man
trá.
Hỡi bầy chim trên khóm rừng già
hỡi bầy ngựa hoang trên cánh đồng khô
hãy thức dậy từ giờ
nghe tiếng hát và nghe lời giục giã
.......
Cuộc bể dâu làm vỡ vụn tinh cầøu
thời gian qua chưa đủ mờ dĩ vãng
nên lòng còn trên chóp đỉnh thương đau
nên lòng còn trăm nghìn lời muốn nói
nên tình còn trăm nghìn điều mến thương
trong nỗi ngây ngất không cùng
hãy ném hồn lên đỉnh ngọn sầu đông
uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá
.........
Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy
Bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về
Ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc
Hỡi loài người vội vã tĩnh cơn mê.
(Tiếng Hát Loài
Chim Di - THCM)
Cuộc bể dâu có làm vỡ vụn tinh cầu, có biến đoàn chiến mã
thành đàn ngựa thồ thân tàn ma dại, cũng không thể nào đốt được tim óc đoàn
ngựa bấùt kham vì còn trăm ngàn lời chưa nói hết, trăm ngàn mến thương chưa
tròn, trăm ngàn điều chưa trọn với đất nước, quê hương, với tổ quốc, gia đình
nên 'tiếng hờn' luôn luôn vang vọng.
Lời thơ mạnh hùng, tràn đầy khí lực. Trên "chóp đỉnh
thương đau", giữa bao u hoài, trăn trở, tiếng thơ vang vang lời kêu gọi
đầy nhiệt huyết và đầy tin tưởng, như lời hịch giục giã mọi người can đảm nhận
chìm bao khổ nạn, mạnh dạn, kiên cường "uống cạn sương mai giữa bầu trời
lạnh giá", gọi nắng mai về, gọi mặt trời mọc sớm cho rừng hoang trổ lại
xanh tươi, cho bầy chim di trở về tổ ấm và trên hết, cho con người "vội vã
tỉnh cơn mê".
Song Nhị không nói riêng cho mình, không riêng cho đồng đội
chiến hữu mà cho tất cả mọi người, đặc biệt cho lớp người đang gây hung hiểm
cho đoàn chiến mã, cho cả loài người bằng đủ mọi loại huyễn ngôn, ma mị, giả
hình. Cái "can trường hiện hữu" (the courage to be – mượn lời của
triết gia Paul Tillich) nằm ngay nơi lời thơ của con người vừa là chiến sĩ vừa
là một nghệ sĩ lãng mạn trong đấu tranh giữa trùng trùng gian khổ đè nặng trên
vai oằn, trên lưng còng, trên tấm thân héo úa.
Thơ Song Nhị luôn khắc khoải trong niềm ưu tư đó; chính niềm
ưu tư nầy đã nuôi dưỡng chí hùng anh, đã thôi thúc cái kiêu hùng của 'chiến mã'
miên viễn dậy dàng để luôn luôn 'đi về phía trước' (Từ giữa ngục tù – THCM).
'Mang dấu tích một thời tao loạn,… đủ trăm nghìn nhức nhối từ một lần lịch sử
sang trang' nhưng trong anh 'trăm nghìn ước mong chờ đợi', không phải những
'viễn vọng mơ hồ, tìm thần tiên ở một ảo tưởng sa mù' (Từ giữa ngục tù đi tới)
mà ngay ở đất trời dương cảnh, ở ngay nơi cuộc sống thế gian, ngay trong song
sắt và bốn bức tường vây hãm:
Ta phải sống
ta sẽ đến đó với em
với nghìn lần trìu mến
ta sẽ giang hết đôi tay
trải rộng tâm hồn
lăn vào cuộc sống
với nhiệt huyết dư thừa
(Từ giữa ngục tù đi
tới)
"Ta phải sống" không chỉ là lời hứa hẹn mà là lời
"đoan quyết"' với mình, với người, với lịch sử. Giữa muôn ngàn đớn
đau, không một lần ngã quỵ, nhiệt huyết vẫn dư thừa để "lăn vào cuộc
sống" với tâm hồn trải rộng, với giăng hết đôi tay nghìn lần trìu mến. Yêu
đời, yêu người, sức sống nơi nhà thơ vững chắc như thành đồng, lời thơ như
những mũi tên xuyên phá vùng vô minh, như những ánh lửa trời xua tan mọi vùng
bóng tối. Đoàn chiến mã đó quả không hề nhục nhã dù có phải nhận chịu thất bại
đắng cay.
'Thất bại không nhục nhã' vậy 'chiến thắng có vinh quang'?
Không, với những người như Song Nhị 'bại không nhục mà thắng cũng không vinh'.
Tại sao? Tại vì Song Nhị là nhà thơ, là một nghệ sĩ. Song Nhị và những nhà thơ
như Song Nhị đi vào lính, vào chiến đấu không để tìm 'vinh' và không phải để
phải 'nhục' vì không 'vinh'. Cuộc đời bắt buộc phải 'ra đi' dù chỉ là đi chơi,
đi dạo, đi chợ, đi học, đi du lịch hay 'đi' theo nghĩa của gái giang hồ hoặc
'đi' vào một nghiệp nghề kiếm sống bình thường (đi cày, đi làm, đi buôn, đi ở
đợ,…) hay 'ra đi' theo một khuynh hướng, chí hướng nào (đi lập nghiệp, đi tu,
đi làm Cách mạng, đi chiến đấu, đi vào triết lý, khoa học, nghệ thuật,…), không
một ai không một lần 'ra đi', 'Parting is all we need of hell'; khác nhau nơi
sự việc, trường hợp, cảnh ngộ đã đưa đẩy việc ra đi, khác nhau nơi chủ đích,
nơi ý hướng và tình tự lúc ra đi, trên hành trình ra đi. Song Nhị đã 'đi vào
lính', làm thân 'chiến mã' vì nghĩa vụ, đã đành nhưng với tất cả tâm hồn nghệ
sĩ nơi mình (điều nầy xin nói sau). Song Nhị đã 'trên nhánh đời chập choạng,
ngồi hót thời biệt ly' (trích trên) và:
ta đã ra đi từ một ngày như hãy còn quá mới
có những khoảng thời gian
tưởng như rỗng tuếch nhẹ hời
nhưng lại ắp đầy trĩu nặng
Ta không thể nói những gì hiện hữu
Là nhất thiết tuyệt vời
Như bên tai vẫn vang vọng rêu rao
Đủ điều thiện mỹ
Mà từ hiện hữu nầy ta mới thấy
những gì thực sự có
(Từ Giữa Ngục Tù Đi Tới)
"Từ hiện hữu nầy ta mới thấy những gì thực sự có",
đúng thế. Gặp phải thất bại, buồn đau, con người thường bi quan, chán nản hay
quyết chí vùng lên xóa tan cái hiện hữu đang ê chề, tăm tối để tạo nên một hiện
hữa khác đẹp đẽ, tốt tươi cho cuộc sống của mình. Thường mọi người đều như thế
và ý chí, hy vọng con người quy tụ vào đấy.
Với Song Nhị, có nét gì khác hơn. Song Nhị đang chứng kiến,
đang sống trong hai thứ "hiện hữu": hiện hữu của chính bản thân mình
và của những thành phần chiến bại đang phải trải chịu đày đọa, khổ đau và cái
hiện hữu phải nghe và bị bắt buộc phải tin, phải theo bao "điều thiện
mỹ" liên tiếp vang vọng rêu rao ra rả đêm ngày. Hai hiện hữu trái ngược
nhau nhưng chính cái hiện hữu thứ hai nầy lại làm cho cái hiện hữu ê chề kia có
ý nghĩa và cũng chính cái hiện hữu thứ hai nầy càng giúp cho ta nhìn ra được những
gì "thực sự có" cho con người, cho cuộc sống. Chính phải sống trong
những điều giả mị, ta mới đòi hỏi, khát khao, tranh đấu cho những gì chân xác,
đúng đắn, đẹp tươi.
Đoạn trích trên đủ cho ta thấy sự 'ra đi' của Song Nhị chất
ngất tâm trạng nào và mang chở ý nghĩa ra sao. 'Tiếng hờn chiến mã' thúc giục
'ra đi'. 'Ra đi' để tiếp tục cuộc hành trình trong cõi thế vì còn phải 'oằn
lưng gánh lấy hồn sông núi, heo hắt trong lòng đóm lửa thiêng'. Cũng như bao
người, anh 'chạy trốn hòa bình', thứ hòa bình 'xã hội luông tuồng trong bệnh
hoạn, con người con thú có gì hơn' và
'lễ nghĩa thay bằng câu dối trá' (về đây), thứ hòa bình của bạo quyền, bạo lực xoáy nát lương tâm, chôn vùi đạo lý, chà đạp quyền sống, phủ nhận tình người; thứ
hòa bình khóa bịt miệng mồm, thắt đai dạ dày dân dã; thứ hòa bình trát trấu bôi
tro, xéo dày, giẫm nát óc tim tâm hồn nghệ sĩ:
Ngọn sóng cuồng lưu xóa vùi đạo lý
Nhân loại ai còn tiếng gọi từ tâm
Ngôn ngữ văn chương lời rao quỷ dữ
Đâu đó hồn thơ máu chảy tim người
(Đổi đời – THCM)
Anh đã từng bị bắt buộc 'Ra đi' bởi bọn người chiến thắng,
'ra đi' để trả 'món nợ' (?) kẻ bại binh, mặc kẻ thù đày đọa. Và dù có phải 'ra
đi' như thế nhiều lần thêm nữa thì vẫn không nguôi quên tiếng hờn chiến mã, vẫn
luôn luôn là dòng máu Việt Nam, không bán lương tâm mình cho quỷ dữ, không bao
giờ buông bỏ căn tính giống nòi.
Mai kia nếu phải ra đi nữa
nếu phải đầu thai một cõi nào
xin mãi làm người con nước Việt
dẫu lòng còn đó nỗi buồn đau.
(Về Đây – THCM)
Bây giờ, 'trốn chạy hòa bình', anh lại phải 'ra đi', tự bắt
buộc mình 'ra đi', không để trở thành 'cái giá phải trả' trong tay phường
'chiến thắng' (?) mà với tâm nguyện tạo lập một 'hòa bình' đúng nghĩa thay cho
thứ 'hòa bình' man trá, giả hình của kẻ thù tàn bạo, vô luân.
RA ĐI - HÀNH TRANG CHẶNG ĐƯỜNG ĐẾN, Ở
“Chạy trốn hòa bình” để 'Tiếng hờn chiến mã' có điều kiện mở
phơi, vạch trần giai đoạn sử máu và thêm nung nấu can trường. 'Đến, Ở' xứ
người, bơ vơ, lạc lõng như để 'nhận phần trả vay'nơi kẻ đã 'gieo mầm nhân quả'.
Có thể Song Nhị không nghĩ như vậy mà hầu như do một 'căn duyên nào buộc', một
'cần thiết nơi đời cõi âm', một tất yếu của kiếp người 'từ nguyên là bụi cát,
ghé bến rồi ra đi':
Ta từ cõi lạ
một lần đến đây
gieo mầm nhân quả
nhận phần trả vay
Ta từ cõi lạ
một lần đến đây
căn duyên nào buộc
nhân sinh kiếp nầy
(Chặng Dừng)
Chặng đường 'đến, ở' trong thân phận ly hương xay xát đêm
ngày tấm thân lữ thứ. Chiến mã ngày nào 'lẫy lừng bao chiến trận, dọc ngang hề!
tứ phương' giờ nầy co rút lại giữa cảnh đất trời xa lạ, giữa cách sống, cách
nhìn chẳng chút đồng điệu, đồng tâm. Một cách biệt, khác xa: ngôn ngữ, văn hóa,
phong tục, thói quen, cả thân xác, hình hài,… một hoài nghi lạnh giá, 'hoài
nghi hiện sinh, hoài nghi lý lịch' (doute existentiel, doute identitaire) xâm
chiếm cõi lòng để hầu như thấy 'tuồng đời hư ảo, phận mình hư không':
Ngày qua theo bóng
đời xuôi theo dòng
bóng đời chập choạng
phận người rêu rong
Ta từ cõi lạ
một lần đến đây
ôâm toàn hư ảnh
thả vào khói mây
(chặng dừng)
Ai không ngậm ngùi trong cảnh tha hương? Ai không héo hắt
trong hoài thương, tưởng nhớ? Chặng đường 'đến, ở' ngun ngút buồn đau; tương
lai hun hút dặm ngàn, mờ mịt, lạnh căm:
Xuân này có người viễn xứ
hăm lăm năm biệt quê nhà
lang thang chân trời góc biển
ngậm ngùi đất tổ quê cha
.......
bốn phương không là quán trọ
ơi người viễn xứ về đâu?
(Người viễn
xứ)
Thời gian lạnh lùng trôi, không đoái hoài thân phận kẻ ly
hương 'trên lưng dày quá khứ, từng vết hằn bầm đen' (Chặng Hai Ngàn Thời Chim
Di Việt Nam),
đã sang thiên kỷ mới mà những đợi chờ lịch sử đổi thay vẫn là một chuyện buồn,
vẫn chưa một dấu vết vơi tan:
Một phần tư thế kỷ
hoàng kim như bóng mây
chặng hai nghìn đến hẹn
chuyện buồn còn trao tay
(chặng hai ngàn...)
Và, bẽ bàng sao! Bao nhiêu đồng bạn cùng đoàn chiến mã bao
thuở hiên ngang, bao thời oanh liệt và trong bao năm tháng ngày dài trong lao
lung khổ nhục vẫn kiên cường bất khuất, thế mà, giờ đây.... Và, bao kẻ khác,
không trong đoàn chiến mã, nhưng cũng đã phải bao đọa đày khổ nhục, đã phải
liều chết ra đi, thế mà, giờ đây...
Một ngày tôi ra ngõ
phố xá người xôn xao
cờ giăng và biểu ngữ
chính nghĩa mình giương cao
Một ngày tôi cúi mặt
giọt nước mắt rơi mau
giữa lằn ranh thù hận
phất cờ vàng chọi nhau
Một ngày tôi ngồi hát
cảm nghĩa tình dạt dào
lời trao nhau giòn dã
đồng hương tố đồng bào
Một ngày tôi câm lặng
cuộc “tranh luận” dài dài
mở toang các làn sóng
âm thanh thật vui tai
Một ngày tôi thức dậy
thấy đàn ông đàn bà
ném tiền vào thầy cãi
vác chiếu ra hầu tòa
(Chuyện Mỗi Ngày Của Tôi)
Giữa cảnh 'chợ trời chính trị' hổ lốn, bon chen, tranh giành
nhau chút quyền, chút lợi, chút danh nham nhở, rẻ tiền; trước bao thủ đoạn nham
hiểm, gian ngoan của kẻ thù cố tạo nên cảnh 'chợ trời bung xung' nhốn nháo đó,
Song Nhị như thấy mình chỉ còn biết 'co lại trong xác con ve sầu', đành câm
nín, im lìm ngày ngày 'lái xe vào hãng Mỹ, an phận làm cu li’ để 'một ngày tôi
lội bộ, ra bờ Thái Bình Dương, đọc lời kinh sám hối, tạ tội cùng quê hương'
(Chuyện Mỗi Ngày Của Tôi).
Việc làm đẹp nhưng chỉ để tự thân an ủi mình. 'Tiếng hờn
chiến mã' không bằng lòng thái độ tiêu cực. 'Tiếng hờn chiến mã' buộc anh cũng
như bao người như anh phải chiến đấu, chiến đấùu cho một ngày về, chiến đấu cho
một lẽ sống hiền hòa, cao quí, cho một mùa Xuân của đất nước thực sự đẹp tươi,
'cả dân tộc sẽ bừng lên sức sống, xóa hết nhục nhằn xây dựng một ngày mai'!
(Phải Nói Lại Những Điều Đã Nói – VLĐX):
đoạn cuối hành trình đêm đen sẽ hết
ở đó sẽ là một mùa xuân
những mùa xuân
ta sẽ trang trọng cắm những bông hoa
cho em
cho cả cuộc đời...
(Từ Giữa Ngục Tù – THCM)
'RA ĐI LÀ ĐỂ TRỞ VỀ'
'Trở về' cũng 'cần thiết cho đời nhân gian'. Bước 'Ra đi'
nào cũng mặc nhiên hứa hẹn bước 'Trở về'. 'Trở về' để phục thù bao oan khiên đã
phải từng gánh chịu hay để tu bổ mái nhà khang trang, ấm cúng hơn xưa, hay để
xây dựng trang sử mới chung vui hoặc chỉ để sống lại những kỷ niệm một thời.
Thượng Đế đã phải ra đi để lại trở về; Đạo thể chân như từ 'Vô Dư Niết Bàn', đã
phải 'ra đi' đắm mình vào Diệu hữu (cõi tục đế) để được trở về trong Hữu
Dư Niết Bàn lộng lẫy hơn xưa. Con người
cũng phải 'ra đi' vì điều đó tự trời, và thiết yếu cho vận hành nhân sinh nơi
cõi thế (xin xem đôi bài thơ nơi phần chú thích).
Sử mệnh Việt Nam
đã hối hả xua hàng triệu con dân đất nước 'ra đi' vào lạnh lùng, hiu hắt để
chuẩn bị cho một 'trở về' đẹp đẽ nay mai. (Xin không dài dòng điều nầy để khỏi
rơi vào Đạo học và Chính trị).
Từ nơi 'đến ở', Song Nhị cũng như bao người luôn nuôi dưỡng
một 'Trở về'. Anh đã từng 'trở về' không từ nơi đất Mỹ mà từ nơi trại tù cải
tạo của Cộng sản. Sau bao tháng ngày bầm
giập tái tê, nhục nhã, anh đã 'trở về' lại với làng xưa, phố cũ, trở về lại
'những lối đi xưa'. Những 'lối đi xưa' nay không còn sắc màu diễm ảo, mộng mơ,
xinh đẹp mà tiêu điều, hiu hắt do một 'đổi đời' kỳ quặc, do “trang sử lật rồi
cuộc biển dâu” :
Về đây đời bỗng ngu ngơ lạ
Quanh quất như chừng lạc lối xưa
Phố mất tên, đường, nhà đổi chủ
Người nhìn nhau thoáng mắt thờ ơ
Về đây. Về lại từ luân lạc
Chưa trả dứt xong nợ quỷ thần
Cảnh cũ người xưa chừ tản mác
Thấy người mà buốt cả tâm thân….
(Về đây –
VLĐX)
Song Nhị đã về lại quê nhà Hà Tĩnh vào năm 1988 (sau 32 năm
kể từ khi cả gia đình vượt thoát qua Lào, nạn nhân của cuộc “cải cách ruộng
đất”, đấu tố hung tàn, man rợ 1956), nhìn cảnh cũ người xưa mà lòng chao đảo,
ngỡ ngàng:
Tôi về Hà Tĩnh chiều nao
Dưới chân Hồng Lĩnh máu đào chưa khô
Quê người (ở Lào, ở Mỹ) tôi nhớ Nguyễn Du
Quê tôi tôi đứng giữa mù mịt xa
(Ba mươi hai năm
về lại quê nhà – VLĐX)
.......
tôi về còn thấy gì nào
những cặp mắt lạ liếc chào: lạ thêm
tôi về ngày tưởng là đêm
từng cơn ác mộng bập bềnh thuở xưa
Tôi về “kẻ đón người đưa”
Bước lên tàu chạy tưởng vừa thoát thân.
Và cũng một lần 'trở về' quê Nghệ Tĩnh cùng Hà Nội, Song Nhị
ngậm ngùi ra sao:
Ngày trở về thăm quê Nghệ Tĩnh
Đất cằn sỏi đá ruộng đồng khan
Con trâu đứng đợi hờ rơm cỏ
Em bé ngồi trông miếng khẩu phần
.........
Và buổi đi tàu ra phía bắc
Tìm về văn hiến bốn nghìn năm
Thương ôi, Hà Nội tiêu điều quá
Năm cửa ô buồn ngõ tối tăm
(Nước non thuở ấy
– VLĐX)
rồi trĩu nặng u hoài như Bà Huyện thuở nào “nước còn cau mặt
với tang thương” để “nghìn năm gương cũ soi kim cổ” ; nhìn 'lăng Bác', nhìn
tượng Lê Nin,... nhìn những anh công an khu phố sẵn sàng tri hô 'phản động'
nhưng cũng vui vẻ tử tế nhận chút tiền hối lộ để 'phản động' được vào Tòa Đại
sứ Úc có việc cần. “Lối đi xưa” bây giờ là thế đó, làm sao không quằn quại đau
lòng cảm thấy “đồng hương mà vẫn đứng ở hai miền, đồng hương mà phải cùng nói
chung ngôn ngữ khác”. Từ nơi xứ Mỹ, Song Nhị đã chứng kiến bao “trở về” của bao
người để càng thêm tủi cực, ê chề:
Người về. Ừ nhỉ về mà hưởng
phú quí vinh hoa hậu đổi đời
đã khuất nẻo rồi thời bão loạn
sá gì vàng đỏ một trò chơi
Người về kẻ đợi người đưa đón
mừng rỡ thay vì tiếng mặn chua
rủng rỉnh đồng dô la nặng túi
dại gì ai kẻ đuổi người xua….
(Người về – THLCD)
Lý do viện dẫn cho những 'trở về', tất cả nghe ra 'hữu lý'
nhưng thực sự chẳng hợp tình, hợp cảnh chút nào dù 'trở về' để thăm viếng thân
nhân, để nhìn lại quê hương xưa cũ, để hợp tác làm ăn xây dựng đất nước (?) với
người Cộng sản hay tệ hơn và tàn nhẫn hơn là để hưởng thụ thân xác gái tơ tuổi
đời non choẹt. Mọi “trở về” đều kết thúc bằng một 'ra đi trở lại' ngay cả 'trở
về hợp tác, dựng xây' (!)
Song Nhị, một chiến sĩ, một nhà thơ – một chiến sĩ nghệ sĩ -
không thể 'trở về' theo kiểu cách đó. Không thể trở về với tâm lý của kẻ 'phàm
phu', hoặc với cái nhìn của một ngoại nhân du lịch. Trở về giờ nầy có khác gì
với 'trở về' trước đây:
Ngó lại
Buồn
Và tủi nhục
Nỗi đau như cắn xé thịt da người
Đất nước về đâu sau thế kỷ Hai Mươi
(Về đâu Đi đâu –
THCM)
Những “lối đi xưa” giờ đang héo hắt, lịm mình trong những
'độc tố bọc đường' man trá, giả hình. Không thể 'trở về' “khi bạo lực còn trên
ngôi thống trị, Khi nhân loại bước vào tân thế kỷ, Đất nước mình lùi lại mấy
trăm năm?” (Phải nói lại những điều đã nói – VLĐX). Chỉ 'trở về' trên những
'lối đi xưa' thuần hậu, hồn nhiên, tươi vui, trong sáng, đẹp đẽ thât sự cho con
người, cho lẽ sống:
Mai anh về em nhé
Mùa xuân bừng nắng tươi
Cây đơm chồi lộc mới
Hoa thắm lại môi cười
....
Mái nhà xưa ấm lại
Bếp lửa hồng reo vui
Mẹ già thôi nước mắt
Con thơ rộn tiếng cười
......
Hồn thơ anh chắp cánh
Tình em hồng nắng mai
Đời thênh thang rộng mở
(Mai anh về em nhé – THCM)
'Trở về' là để đi vào tương lai; 'trở về' là để dựng lại
'Cội Nguồn' mà dù cuộc sống có 'vô thường' đến đâu thì trên cái 'vô thường' đó,
Cội Nguồn cũng luôn luôn thắp sáng khối óc, trái tim những người không mất gốc:
“Du cư suốt cõi vô thường, Trăm năm về, ở ngọn nguồn cõi chung” (Nghĩ về Nguồn
Cội – VLĐX) để tất cả, chết, sống, bạn, thù cùng nhìn ra:
Trên mộ bia ai kẻ thua người được
Có nhận ra nhau chung một cội nguồn
(Phải nói lại những
điều đã nói – VLĐX)
Cái Cội Nguồn nguyên khởi, từ đó vạn hữu đã 'ra đi' đắm mình
vào cõi thế để một ngày, sau bao trầm luân dâu bể của hiện hữu vô thường, lại
'trở về' với Nó, với 'ngôi nhà Hằng Thể' (la Maison de l’ Être). 'Trở về' là
tìm lại, sống lại thời tuổi mộng nguyên sơ trong một thế giới không sai biệt,
không còn đếm đo, chia cắt, tính toán thị phi, tranh giành hơn thiệt. Song Nhị
chỉ 'trở về' trong ý đó, với tâm nguyện đó (anh đã đớn đau đành cam bất hiếu
không về phục tang mẹ mất ở Việt Nam tháng 4/2002).
'Trở về' không phải để 'trả thù, rửa oán' mà chỉ để góp phần
đưa lịch sử sang trang, để đổi chiều lịch sử, để chấm dứt một giai đoạn lịch sử
bi thương, mở ra những trang đời tươi đẹp cho mẹ, cho cha, cho đất nước non
sông, cho người, cho đời, cho em: “Sẽ làm lại. Sẽ bắt đầu cuộc sống, Em góp nụ
cười chung nỗi hân hoan“ (Bài đầu tháng giêng – VLĐX). Còn riêng anh, chỉ một
ước mong bé nhỏ: “Anh về hái hạt mùng tơi, làm ve mực tím viết lời yêu thương'
(Mực tím mùng tơi – THCM). 'Viết lời yêu thương', vâng, chỉ có thế, chỉ chừng
ấy thôi; lời thơ giản dị chẳng chứa đựng gì cao xa nhưng không phải là chuyện
dễ làm, không phải ai cũng làm được nếu không có 'tấm lòng' thực sự biết yêu
thương. 'Lời yêu thương viết bằng mực tím từ hạt mùng tơi'. 'Hạt mùng tơi', sản
phẩm của quê hương, một sản phẩm của tự nhiên hiền hòa, đạm bạc, bình dị, đơn
sơ. 'Mực tím', màu tím, màu của suy tư, suy tư về tình yêu thương, do tình yêu
thương để hành động vì yêu thương, phục vụ yêu thương hầu cuộc sống, cuộc đời
thoát khỏi mọi thứ 'võng ngôn' chia cắt tình người, đã dùng yêu thương làm nhãn
hiệu, chiêu bài che đậy bao ý đồ gian manh, biến yêu thương thành thù hận, hờn
căm xéo nát tình người.
'Trở về'. Vâng, trở về nhưng bao giờ? Chưa ai trả lời. Song
Nhị không xác quyết lúc nào, nhưng:
Lịch sử bước đi bằng đôi hia bảy dặm
lịch sử sẽ trở về
như bào thai đến chu kỳ của nó
và sẽ dừng lại ở những chặng đường
Dù thời gian có bao lâu
dẫu cuộc đời có vội vã
hối thúc ta
xin em đợi chờ.
(Xin Em Đợi Chờ – THCM)
Xin em đợi chờ. Sớm muộn thế nào cũng sẽ đến 'tự cuối thiên
thu nghìn vạn hướng, Quay ngược thời gian sử đổi chiều':
Ngày đi. Ngày đến. Ngày về lại
Vẫn hẹn. Vẫn mong. Dẫu trễ tràng
......
Xin hẹn với nhau cùng lượt nhé
Quê hương xứ sở đón ta về
Cờ bay rợp nắng mùa xuân mới
Người gặp lại người nỗi hả hê
(Phố xưa đốt pháo
đón Giao Thừa - VLĐX -
kính tặng Hoàng
Tử Bảo Ân)
Bởi vì 'Quê hương đâu mãi vùng đất cấm, Đời sẽ rộn ràng
những bến sông' (Sang mùa - VLĐX). Xin
hẹn, xin chờ: 'Ai đó thương nhau chờ hội mới, Sang xuân sẽ nở rộ hoa hồng'
(Sang mùa). Vì rằng 'ĐOẠN CUỐI HÀNH TRÌNH ĐÊM ĐEN SẼ HẾT' (từ giữa ngục tù), vì
rằng 'Phút giờ tăm tối nhất của đêm đen lại chính ngay vào lúc bình minh hiển
hiện' (2) và 'Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều thì lòng yêu mến của phần nhiều
người sẽ nguội lần. Nhưng kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng thì sẽ được cứu'
(Tân ước Mathieu: 24: 12-13).
Xin hẹn, xin chờ. Ngày đó chắc hẳn không xa. Ngày đó
"người gặp lại người", không chỉ trong tình nghĩa cố tri mà trong
tình người hảo hợp không còn thù hận, hờn căm, không còn buồn đau, thống khổ mà
tất cả hân hoan dù lạ hay quen cũng cùng hoan hỷ trong nghĩa tình "
bằng hữu, anh em".
Ba chặng đường 'Ra đi, Đến ở, Trở về' của hành trình Song
Nhị, ba chặng đường đầy gian khổ, bi thương, cô đơn, buồn đau, u uất nhưng
không thiếu vắng niềm tin, vẫn tràn đầy khí lực và chan chứa tình người. Hiểu
theo Đạo Học, Ba chặng đường, một hành trình không của riêng Song Nhị, không
của riêng ai, không của riêng người Việt nơi hải ngoại hiện nay, mà chính là
hành trình chuyển dịch của dòng vận hành của Lẽ Đạo, của Thượng Đế, của Thể
tính Chân Như từ 'Chân Không' đi vào
'Diệu Hữu' để trở về với 'Diệu Hữu trong Chân Không'. Đấy là ẩn dụ 'Tổ quốc –
Kiều địa – Cố hương' của nhà tư tưởng M. Heidegger (3).
Song Nhị không nói gì về tư tưởng, về triết học nhưng lời
thơ đã hàm ngụ tính tư tưởng nơi cõi lòng luôn luôn thiết tha hướng vọng về Cội
Nguồn, về mái ấm của ngôi nhà Hằng Thể óng mượt yêu thương. Từ trong cảm thức,
Song Nhị đã từ lâu mơ màng âm thầm nuôi dưỡng cái hướng vọng đó, mượn hành
trình 'Ra đi, đến ở, trở về' của riêng mình diễn tả tâm trạng, tâm tình và ý
hướng vọng về cái lẽ hoằng viễn, thâm sâu bằng lời thơ đơn giản nhưng chất ngất
niềm tin.
Song Nhị yêu thơ và làm thơ từ thuở còn thư sinh. Thơ theo
anh suốt cả cuộc đời. Thơ theo anh vào chiến trận, vào ngục tù, sống với anh
trong chặng đường 'đến ở' lạnh buồn, 'ngao du' cùng anh suốt mọi ngã đường đất
nước trên những 'lối đi xưa' và trên những 'lối đi ngày tới' trong ngày về.
Suốt đời anh sống với thơ; suốt đời thơ 'ăn ở' với anh. Thơ cho mẹ, cho cha, cho
chiến hữu, cho đồng hương, cho bạn bè, cho cô em nhỏ, cho bé thơ, cho cụ già,
cho quê hương, đất nước, cho cuộc đời, cho nhân loại đầy đủ mọi cảnh ngộ, mọi
sắc thái của hành trình nhân thế. Thơ là 'chất sống' một người, điều nầy dễ
hiểu. Nhưng không chừng đó. 'Chất sống' nơi thơ – với những người thực sự là
nhà thơ - mang chở một 'sứ mạng' cao cả, thiêng liêng. Thơ không chỉ là 'tiếng
nói của con tim', không chỉ là những biểu hiện của thực tại, không chỉ là những
rung động của tâm tư về phận mình hay vận nước mà còn là một 'thăng hoa' ý chí
và tâm tình, một thăng hoa dể đạt được cái bản thể tinh anh, thuần khiết của
con người nằm sâu trong vô thức hướng về hòa nhập với cái 'bản thể của tự
nhiên' (le naturel de la nature).. Song Nhị đã viết:
Tôi sẽ mãi làm thơ
Ngôn từ vụng dại
Sẽ lang thang gom gió sớm mây chiều
Để đem về xây tổ ấm thương yêu
Cho hồn tôi hồn em ngủ ngoan trong đó
Tôi sẽ mãi làm thơ
Để cùng em đời đờøi trăng sao hội ngộ
(dẫu bầu trời sương khói mùa đông)
Tôi sẽ đốt thơ thắp sáng ngọn nến hồng
Soi tỏ lòng tôi – Lòng em
Nếu muốn
Có thể thơ tôi làm em phiền muộn
Làm mọi người ghét bỏ tôi thêm
Nhưng không ai có quyền
Vắt trái tim lấy máu làm độc dược
Bởi máu tim là dòng suối ngọt
Mãi mãi luân lưu nuôi mạch sống không cùng
Mà thơ là tiếng nói của lòng
Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi
(Một đời với thơ
– VLĐX)
Bài thơ như một 'thông điệp'. Thơ là ngôn ngữ của mọi ngôn
ngữ, là nghệ thuật của mọi nghệ thuật. 'Thông thường, thi sĩ được tạo dựng vào
khởi điểm hay tận cùng của một thời đại của thế giới. Chính do từ các thi khúc
mà mọi dân tộc từ sơ sinh đã từ trời xuống đất để đi vào cuộc mưu sinh, vào địa
bàn văn hóa. Chính do từ các thi khúc mà mọi dân tộc trở về với cảnh sống
nguyên sơ. Nghệ thuật thiết lập mối chuyển tiếp từ bản thể tự nhiên vào văn hóa
và từ văn hóa vào bản
thể tự nhiên' (4).
THƠ, 'Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi'. Thơ cứu rỗi con
người. Không có thơ, Nguyễn Chí Thiện đã rữa xác trong tù; không có thơ, chàng
sẽ không có một công trình sáng giá góp cho đời. Thơ đã cứu sống Nguyễn Chí
Thiện; Thơ đãø làm 'địa ngục nở hoa' nơi chàng (nhan đề tập thơ 'Hoa địa ngục'
của NCT). Thơ đã biến Nguyễn Chí Thiện thành nhân vật lịch sử một thời. Nguyễn
Chí Thiện làm thơ không để trở thành thi sĩ. Thơ đến với anh, bắt anh phải 'đảm
đương' một vai trò lịch sử trong dòng
lịch sử dân tộc, qua thơ. .
Một câu thôi 'Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi', Song Nhị đã nói lên cái hoằng viễn,
thâm sâu, u trầm, kín nhiệm, muôn đời của Thơ.
Song Nhị đã vào đời với thơ, vào quân ngũ, vào chiến trận với thơ. Nơi anh, người dân, người lính, người thơ
quyện vào nhau. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' không đi tìm vinh quang trong chiến
thắng. Cái vinh quang của họ ở nơi trọn vẹn nghĩa vụ, ở nơi cái 'sứ mạng lịch
sử ' của thời đại dù có phải vì bắt buộc mà dù có phải bị bắt buộc, họ cũng đã
sống với thơ. Toàn bộ thơ anh không nói gì đến chiến thắng, chiến công, đến
những hãnh diện, tự hào, oanh liệt ngày qua sau một 'thành công' nào đó đánh
bại quân thù. 'Tiếng hờn chiến mã' là tiếng hờn vì nghĩa vụ không tròn, vì tình
yêu không trọn vẹn để phải đau thương cho dân, cho nước, cho nhà. Người 'chiến
sĩ nghệ sĩ' đi vào chiến trận với hình ảnh 'người dân nơi người lính' chứ không
phải 'người lính nơi người dân' hay chỉ là người lính đơn thuằn. Người 'chiến
sĩ nghệ sĩ' chiến đấu để bảo vệ người dân qua người lính. Điều nầy thường không
mấy ai để ý và khó rõ ràng nói ra. Đi vào thơ, không phải để trở thành thi sĩ;
đi vào chiến đấu không phải để tìm vinh quang. Mộng trở thành thi sĩ sẽ giết chết
thơ; mộng tìm vinh quang sẽ giết chết ý nghĩa chiến đấu, hay sẽ khiến chiến
thắng không còn vinh quang mà là cuồng bạo. Nhà khoa học ra công tìm tòi,
nghiên cứu không để mong trở thành nhà thông thái; nhà triết học mong tìm một
hướng đi, một giải quyết nhân sinh không phải để được là triết gia. Người làm
thơ cũng thế; người chiến sĩ cũng thế. Người hiệp sĩ trở thành hiệp sĩ vì đã
cứu người chứ không phải muốn được là hiệp sĩ nên mới cứu người. “Bảo vệ người
dân qua người lín”, ý nghĩa chiến đấu nằm ở đấy. Và, có thể phần nào đấy là cái
'triết lý' ẩn tàng nơi thơ Song Nhị dù anh chẳng bao giờ triết lý:
Xin từng đốt ngón tay mỏi mòn lời hứa hẹn
Xin ngày tháng dài ao ước đơn sơ
Xin một lần gõ cửa gọi tên người còn đáp lại
Xin cho quay về nhận diện ấu thơ
Xin bồng súng chào mừng đồng loại
Nhận huấn lệnh đi vào cuộc đời
Sự khởi đầu bằng vết hằn ký ức
Và gió mưa luân vũ quay cuồng
Những đứa bạn nằm yên dỗ giấc
Cũng thôi
Hạnh phúc vẹn toàn
.............
Xin bài kinh cầu trổi thành nhạc khúc
Một phút an ủi vỗ về
Một phút bình yên trên vùng ảo tưởng
Ôm tròn hoài niệm quay đi
Sự có mặt của những ngày dẫy đầy triệu chứng.
(Tình ca
nhập cuộc – VLĐX)
“Nhận diện ấu thơ” trong sự “có mặt dẫy đầy triệu chứng”,
giữa “luân vũ quay cuồng”, giữa “vòm trời ảo tưởng”. “Nhận huấn lệnh đi vào
cuộc đời”, huấn lệnh nơi đây không hẳn là 'mệnh lệnh' của cấp chỉ huy hay của
Đảng và Nhà Nước, nếu nói về phía những người bên kia. 'Huấn lệnh đi vào cuộc
đời' là sự 'bắt buộc phải 'ra đi' do “thiết yếu của cõi đời nhân gian”, do 'điều
biết tự trời'; huấn lệnh đó là cái nghĩa vụ phải gánh vác do đòi hỏi của thiết
yếu lịch sử. Làm tròn nghĩa vụ đó là vinh; không làm tròn được không là nhục.
Cái 'nhục' ở nơi tránh né cái nghĩa vụ đó hay đưa cái nghĩa vụ đó đi sai đường
lịch sử. Hân hoan nhận cái nghĩa vụ lịch sử đó (bồng súng chào mừng đồng loại)
đi vào cuộc đời. “Chào mừng đồng loại”: chào mừng thân nhân, bạn bè, chiến hữu,
chào mừng mái ấm gia đình thân thương, có thể chào mừng cả nhân loại trong việc
'ra đi' do sứ mạng lịch sử đó, do từ 'vết hằn ký ức'. Ký ức nào? Gần gũi là ký
ức Quê hương, Tổ quốc; cao rộng, thâm sâu hơn, đấy là ký ức về Cội nguồn mà
Song Nhị đã nói. Victor Hugo cũng đã nói trước đây:
Mọi điều đã được nói.
Điều xấu cáo chung; lệ buồn chấm dứt; không còn xiềng xích
tù gông, không còn tang ma, không còn báo động. Hố thẳm khắt khe không còn câm
nín, (mà) bập bẹ lên lời: tôi nghe gì?
Đau khổ nhân sinh tan đi trong mọi vùng bóng tối; Thiên sứ
từ cao lớn tiếng gọi mời : Nguồn cội! (5)
“Xin cho quay về
nhận diện ấu thơ”; nhận diện là nhìn ra, thấy lại, sống lại. Tuổi ấu thơ con
người cùng cái Cội nguồn nguyên khởi bao giờ cũng bình dị, đơn sơ, thuần nhiên,
thánh khiết, vô ưu. 'Xin được như vậy'(Ainsi soit-il, bốn câu thơ đầu trích
trên). Và những người nằm xuống? Họ còn mãi ôm 'hằn ký ức', 'ôm tròn hoài
niệm'; họ đã không may mắn nhìn lại được 'tuổi ấu thơ' của Quê hương, Dân tộc,
của chính mình, của Cội Nguồn nguyên thể thì xin “bài kinh cầu” (requiem) đừng
cần thiết gọi hồn họ siêu thăng mà hãy trở thành tiếng nhạc, lời thơ vỗ về họ
một phút bình yên giúp họ được 'quay đi', không còn phải đối diện với 'sự có
mặt của những ngày dẫy đầy triệu chứng' đang còn phải diễn ra.
Song Nhị 'ra đi', - 'đi vào chiến đấu' - với ý tình như thế.
“Xin tiếng nói đây em, Một lần từ biệt, Xin tiễn đưa bằng nỗi nhớ xa xôi, Xin
con tàu vào viễn lộ hoàng hôn, Sương mù biển lặng, Gom hết đau thương đốt lửa
giữa trời” (Tình ca nhập cuộc). Bài thơ được viết năm 1969 giữa lúc súng giặc
vang rền khắp nẻo quê hương. Ba mươi ba năm sau (năm 2002) nơi xứ Mỹ, ý tình đó
vẫn theo anh:
Sông với núi và trăng sao cây cỏ
Em và tôi và tất cả muôn loài
Đã hiện hữu trước ý đồ tạo hóa
Đã căn phần tự thuở mới phôi thai
Tôi đã đến, đã đi và sẽ tới
Cuộc trăm năm đoái tưởng chữ vuông tròn
Khi nhân ảnh khuất sau vừng nhật nguyệt
Xin gửi người còn lại khoảnh lòng son
(Lời Mặc Khải Của
Tiền Thân)
Hiện hữu không do từ ý muốn của riêng ai mà do 'ý đồ tạo
hóa', do từ 'căn phần tự thuở mới phôi thai'. Đi vào cuộc đời là đi vào 'viễn
lộ của hoàng hôn', nói theo Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều:
Cái quay búng sẵn lên trời
Lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
(Cung oán ngâm
khúc)
thì phải lần mò bước đi trong đêm tối bủa vây. Cái quay phải
quay, không được từ chối ngưng quay. Nhưng không phải vì thế mà không chịu nhìn
ra hướng mình quay và điều chỉnh dòng quay thế nào cho thuận theo ý mình, thuận
theo cái lý vận hành của Tạo hóa. Thuận Nghiệp chính là để 'Cải Nghiệp'. Cải
nghiệp bằng: “Gom hết yêu thương đốt lửa giữa trời”. 'Đốt lên, đốt cho bừng
sáng giữa trời bao la chất lửa yêu thương' để mai kia vĩnh viễn ra đi giã từ
cõi thế, “khi nhân ảnh khuất sau vừng nhật nguyệt” (parting is all we need of hell) được “gửi
người còn lại khoảnh lòng son”. “Khoảnh lòng son”, vâng, chỉ thế, đơn sơ chỉ
thế nhưng khó khăn thay và mấy ai chịu nghĩ, chịu làm. 'Lưu thử đan tâm chiếu
hãn thanh' (lưu lại tấm lòng son cùng sử
sách – Nguyễn Công Trứ : Chí làm trai).
Giản dị quá đi thôi! Nhưng giữa cảnh 'chợ trời' nham nhở
tranh đoạt lợi danh, quyền uy, chức vị, nào mấy ai đủ nghĩa khí, can trường
thực hiện, ngoài một số ít người luôn nuôi dưỡng nơi mình 'khí hạo nhiên chí
đại chí cương' (Nguyễn Công Trứ: Kẻ sĩ) và ngoài nhà thơ, những nhà thơ thực sự
là nhà thơ, những nhà thơ đi vào cuộc đời với cả tâm hồn người dân chất phác,
người chiến sĩ kiên cường và người nghệ sĩ lãng mạn, bát ngát yêu thương trang
trải tình người thanh tân, thánh khiết đem 'Thơ vào đời trăm năm cứu rỗi' . Đấy là sứ
mạng của Thơ, của nhà thơ, những
nhà thơ lớn của thời đại nguy nan (poètes en temps de détresse - M. Heidegger),
những nhà thơ lớn vào thời tận cùng của một giai đoạn lịch sử bi thương của thế
giới (lời Holderlin, trích trên).
Lời thơ có sức mạnh thuyết phục, nâng cao ý chí, khí lực con
người, gieo tin tưởng vào cõi lòng đang sầu héo trong mọi bất hạnh đang diễn ra
cho mình, cho nước, cho dân. "Tôi đã đến, đã đi và sẽ tới", lời thơ
tuôn chảy, không chút vấp váp nào như một xác quyết, khẳng định với mình, với
người. Cuộc sống là một hành trình "Ra đi, Đến ở, Trở về" lúc bế tắc, lúc hanh thông nhưng bao giờ cũng
dẫn đến thời điểm 'tới nơi" với những ai bền tâm, tráng chí kiên trì trong
chí hướng làm đẹp người, đẹp đời, đẹp đạo,...
Bao nhiêu bài nữa nhưng xin dừng. Bàng bạc trong thơ Song
Nhị những ý tình xa xôi, hoằng viễn đó, những ý tình triết lý về ý nghĩa làm
người, ý nghĩa cuộc sống, có thể do xuất thần cảm ứng mà anh không biết, không
ngờ. Nhưng dù do xuất thần thì cũng đã do từ lâu rồi tiềm tàng nội tại trong tâm
tư phát sinh từ bản chất nghệ sĩ vừa hạo nhiên vừa lãng mạn. Xin sống với cái
tâm hồn 'chiến sĩ - nghệ sĩ' nơi anh để nhận ra phần nào kín nhiệm nơi thơ
anh.
Với tâm hồn đó, Song Nhị đã đi vào chiến trận với hình ảnh
'người dân nơi người lính'. Điều nầy, người lính Mỹ đồng minh không thể nào
hiểu được (6). Cả những lính Việt Nam bên kia chiến tuyến. Họ - những
người Cộng sản - đi tìm vinh quang không cho người dân, có thể không cả cho
người lính mà chỉ cho họ, cho tập đoàn Cộng sản, cho chủ nghĩa, cho cái 'ý thức
hệ' riêng tây của họ. Họ đã biến người dân thành người lính, họ bảo vệ người
lính hơn người dân. Họ đã xua hàng trăm, hàng ngàn người dân đi trước lính
trong những cuộc tấn công. Chiến thuật 'biển người' đã giết hàng loạt nguời
lính và người dân. Họ - người Cộng sản - biến người lính không còn là người dân
để họ tìm vinh quang trong chiến thắng và để người lính được nhận phần thưởng
'liệt sĩ, anh hùng' (!). Họ biến người lính thành từng cầu thủ bóng tròn, thành
từng võ sĩ quyền anh, những 'sát thủ'
hay những 'giác đấu' phải thắng mọi đối thủ để được Đảng tặng thưởng tiếng 'anh
hùng' đem vinh quang (!) về cho Đảng (7). Tất cả đều thuộc về Đảng và Nhà nước,
nằm trong vòng tay, khuôn khổ của Đảng và Nhà nước, cả đất nước, tôn giáo, pháp
lý và lịch sử cũng thế. Xin không dông dài để khỏi bị gán ghép là 'tố Cộng'.
Quang Dũng, một chiến sĩ nghệ sĩ thời chống Pháp đã không theo văn nghệ của
Đảng nên bị đánh giá là 'lãng mạn tư sản' nên bị thất sủng. Và bao người như
thế cho mãi đến nay, không cần kể nói nơi đây. Người lính không mang theo hình
ảnh người dân nơi mình, không 'bảo vệ người dân nơi người lính' thì chỉ là
người lính đánh thuê, người lính của lực lượng xâm lăng hay công cụ trong tay
kẻ độc tài. bá đạo.
Song Nhị không đề cập đến điều nầy nhưng qua thơ anh, ta mơ
màng nhận ra tính cách chiến đấu theo tinh thần 'hiệp sĩ hùng anh' nơi người lính, nơi người 'chiến
sĩ' đúng nghĩa là 'chiến sĩ '.
Do bản chất 'người dân, người lính, người nghệ sĩ', quyện
vào nhau, thơ Song Nhị kết hợp cả hai tính chất cổ kính của thơ xưa với tính
lãng mạn của thơ nay. Trong “Tiếng hờn chiến mã”, lời thơ phảng phất không khí
Đường thi qua các bài Thất ngôn, ngũ ngôn tứ tuyệt hay những bài ít nhiều theo
lối cổ phong. Ta đọc ra cái phong thái hạo nhiên, cái khí tiết kiên cường của
kẻ sĩ phu yêu nước trước đây, cái dũng của con người hào kiệt, nguy nan, gian
hiểm dạ chí không sờn. Có buồn đau vì nghĩa vụ không tròn, vì lâm vào thế phải
'gãy kiếm cung' thì cũng là cái buồn đau, than thở, ngậm ngùi chung do thời
không xuôi, thế không thuận chứ không rũ liệt, nát tan, nhục nhã để phải tự
mình đánh mất khí tiết hùng anh. Qua thơ Song Nhị, ta như sống cái không khí
'Kẻ sĩ' của một Nguyễn Công Trứ ngày nào.
Những bài làm theo thể thơ mới, tự do và nhất là Lục bát,
phần lớn nơi 'Về lối đi xưa' chan chứa tình cảm ngọt mát tính chất trữ tình,
tha thiết, mặn nồng, cảm động. Lời thơ như tuôn chảy, dàn trải, mở phơi tình
tự. Hình ảnh trong thơ không nơi từ ngữ mà nơi văn ảnh tức hình ảnh của toàn
bài chứ không chú trọng nơi một ẩn dụ, một biện pháp tu từ nào. Bài “Sáng lại
lòng con” là một điển hình. Mượn một hình ảnh hiện thực “Cặp kính viễn mẹ cha
cho con” chuyển thành văn ảnh mang tính
chất ẩn dụ vừa nói lên tình cha nghĩa mẹ đậm đà, cùng công khó và ý tình mẹ cha
vừa mang chứa ít nhiều tính chất triết lý. 'Cặp kiếng' mẹ cha trao cho không
chỉ để giúp con nhìn đọc tỏ tường mà trở thành 'cặp kiếng của lương tâm', của
'trí tuệ', của 'tấm lòng' nhìn rõ mình, rõ người, rõ nhân tâm, thế sự, rõ tình
đời, vận nước; cặp mắt già vì số tuổi, vì buồn đau, vì truân chuyên, nhục nhằn,
khổ nạn, cặp mắt đã mờ, cặp mắt sáng lại:
Con đã thấy đã nghe đã hiểu rồi
Thưa mẹ
những gì rất đáng yêu
những gì rất ghê sợ
con đã đến đã đắm mình trong đó
tha thiết trong yêu thương
dạn dày trong đau khổ
sôi sục trong hờn căm
con lớn lên theo năm tháng nhục nhằn
mắt con đã mờ
mắt con sáng lại.
(Sáng Lại Lòng Con
– THCM)
Tính chất trữ tình nơi đây, phần nào do tính cách hạo nhiên
của kẻ sĩ, đã vượt lên trên 'mặt bằng tình cảm' thường ngày, hướng đến một thứ
tình yêu lung linh, diệu vợi, thiêng liêng nào khác:
Tôi trải lòng mình
tiếng yêu thương mời gọi
xin mặt trời soi
vườn tỉnh ngộ nở hoa
(Thông điệp từ địa
chỉ New York
9/11 Gởi loài người)
Thơ Song Nhị là loại thơ chiến đấu, không phải cổ vũ đấu tranh
vì hận thù mà chiến đấu cho một lẽ sống không còn gian trá, giả hình, một cảnh
sống trong tình thương, trong Lẽ Thật, trong cái "ĐẸP" của tình người
đôn hậu, thuần nhiên, chiến đấu cho một cảnh đời ngọt ngào ân ái, luôn luôn an
bình, hạnh phúc, đâu đâu cũng là Đất Trời Quê Hương luôn mùa Xuân hoa nở. Cái
"lãng mạn" nơi thơ anh không là cái "lãng mạn tư
sản", cái lãng mạn
của "tình tự mặt bằng" mà là thứ "lãng mạn chiến đấu”,
thứ lãng mạn hào hùng của người chiến sĩ
nghệ sĩ đấu tranh cho nhân đạo, nhân quyền.
Ngoài một số bài ngậm ngùi về cảnh phải 'ngã ngựa' và một số bài nói về
cảnh 'đổi đời tê tái' của Cộng sản phủ trùm lên đất nước, nhân dân, nhìn chung,
thơ Song Nhị luôn luôn nói đến 'tình người', không chỉ giới hạn nơi những mối
tình thiết tha cao quý ai cũng hằng mong trong cuộc sống hằng ngày (yêu mẹ cha,
chồng vợ, con cái, bạn bè, yêu Tổ quốc, nhân dân,...) mà còn hướng đến một tình
yêu thăng hoa con người cùng cuộc sống, cuộc đời để cả mặt đất bình yên, cả
nhân loại không còn trong bóng tối quỷ ma. Xin mượn lời thơ của Victor Hugo
trong bài “Bên bờ vô hạn” (au bord de l'infini) để kết thúc bài viết nầy và
cũng để phần nào nói lên cái 'Tình Yêu' thánh thiện, thiêng liêng mà Song Nhị
ước mong được thấy dựng xây cho tất cả mọi người nơi cõi thế, thứ tình yêu Song
Nhị đã đem theo mình trong chiến đấu, trong ngục tù cải tạo, trong thân phận
lưu dân nơi xứ người qua suốt cuộc hành trình 'Ra đi, Đến ở, Trở về' biểu hiện
qua Thơ “Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi”:
Giờ đã đến. Hy vọng lên.
Thắp sáng lại linh hồn lịm tắt
Thương yêu nhau! Thương yêu nhau!
Vì là lửa ấm thiêng liêng
Lửa của ngày thực sự bình yên,
Vũ trụ mịt mờ, giá buốt, ăm ắp đảo điên
Đang hỏi đòi nhân thế thăng hoa bởi
ngọn lửa thiêng
Và con người bởi tình yêu vô hạn. (8)
NGUYỄN THÙY
Grenoble (France) 15/11/2002
---------------
Chú thích:
1) Hai câu thơ, tôi không nhớ được chép lại nơi sách nào (có
thể từ một sách của Bùi Giáng). Ngày ở Pulau Bidong (1989), tôi có đọc một
'Tuyển tập thơ tiếng Anh'. Không biết tiếng Anh, tôi chỉ 'nhìn' qua số vốn
liếng tiếng Pháp ít oi và nhờ vào Tự Điển. Từ 'Parting' có thể dịch là 'chia
ly, biệt ly, từ ly, vĩnh ly'; tôi dịch theo tiếng thuần Việt là 'Ra đi'. 'Hell'
có nghĩa là 'địa ngục', có thể dịch là "cõi âm", "âm cảnh"
hoặc "đời nhà ma". Nhưng đã vào địa ngục thì không còn 'ra đi' nữa;
do đó từ 'hell' nơi đây chỉ cõi sống trần gian dẫy đầy tội lỗi khổ đau, nên tôi
dịch là 'đời nhân gian' phỏng theo lời thơ Nguyễn Du trong truyện Kiều:
"Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian".. Lời thơ Emily Dickinson đã gợi
ý tôi làm đôi bài thơ, xin trích đôi đoạn:
a) Hỡi Thượng Đế, u sầu chi quá đổi
Chẻ chia mình để giải tỏa cô đơn
Tự chứng quả giữa dòng đời trôi nổi
Đi tìm yêu trong đáy thẳm tình buồn…..
Người tìm lại dung nhan Người buổi đó
Trải u sầu đen tím gót nhân gian
Bước dịch chuyển theo trang đời lổ đổ
Để dời đô lên ngự đỉnh Thiên đàng.
b) Em giả từ nguyên sơ
Vào nằm dòng sử máu
Gieo linh hồn nghiệp báo
Sầøu nhân quả bơ vơ…..
2) L' heure la plus sombre est juste avant l'aurore – Arnaud
Desjardins : 'Regards sages sur un monde fou', édt. La Table Ronde, No 2938,
Paris 1997, trang 280, câu cuối cùng của sách
3) 'Tổ quốc, Kiều địa, Cố hương' (Patrie, Colonie, Sol
natal). Xin không đi vào Đạo học vì quá dông dài và khó hiểu. Xin nói về người
Việt hải ngoại hiện nay. Chúng ta đã phải rời Tổ Quốc (Quê Hương, Đất nước) ra
đi, 'đến ở' nơi miền Kiều địa (đất khách, quê người), luôn luôn khao khát và
quyết tâm 'trở về' với 'Cố hương' (cố quận) để làm đẹp Tổ Quốc, Quê Hương với
bao hành trang tích lũy qua chuổi ngày phiêu lưu nơi đất khách. Về mặt Đạo học
(Ontologie, Philosophie de l' Eâtre), Tổ Quốc chính là Cội Nguồn phát sinh vũ
trụ hiện tượng, Kiều địa là cõi sống thế gian (cõi Diệu hữu theo Phật giáo) với
vô vàn hiện thể vật và người luôn luôn biến đổi vô thường; Cố hương hay Cố quận
là sự quy hồi, hồi phục của Tổ Quốc, Cội Nguồn trong một trạng thái tròn đầy,
viên mãn, tốt đẹp hơn thưở ban đầu. Phần
nào lời thơ Emily Dickinson và tấm 'gương cũ' trong lời thơ Bà Huyện Thanh Quan
(nghìn năm gương cũ soi kim cổ) mang ý nghĩa đó. Thơ Song Nhị tiềm tàng ý nghĩa
cao rộng nầy.
4) En général, les poètes se sont formés au début ou à la
fin d'un âge du monde. C'est avec les chants que les peuples descendent du ciel
de leur enfance pour entrer dans la vie active, au pays de la culture. C'est
avec des chants qu'ils s'en retournent à la vie originelle. L'art constitue la
transition de la nature à la culture, et de la culture à la nature – Holderlin
– Trích dẫn bỡi M.Heidegger trong tác phẫm 'Holderlin Hymnen', bản dịch Pháp
ngữ "Les Hymnes de Holderlin" của Francois Fedier và Julien Hervier,
nrf, Gall. Paris
1988, trang 33. (Từ 'nature' nơi đây, xin không hiểu là 'thiên nhiên' mà là
'bản thể của tự nhiên' (le naturel de la nature).
5) Đoạn cuối bài trường thiên 'Au bord de l'infini' (Bên bờ
vô hạn) của Victor Hugo:
Tout sera dit. Le mal expirera; les larmes
Tariront; plus de fers, plus de deuils, plus d'alarmes;
L'affreux gouffre inclément
Cessera d'être sourd, et bégaiera: Qu' entends-je?
Les douleurs finiront dans toute l' ombre; un ange
Criera: Commencement!
('Commencement' không nên hiểu là 'bắt đầu' hay 'khởi đầu'
(début) mà là 'Khởi nguyên' hay 'Cội Nguồn'. Sự khác biệt giữa 'khởi đầu' và
'khởi nguyên', xin không nói nơi đây vì sẽ dông dài).
6) Một số phim Mỹ cho ta thấy người lính Mỹ hầu như chỉ được
huấn luyện trở thành 'đấu thủ' để quật ngã hết mọi đối thủ như trong phim Rambo
với tài tử Sylvester Stalone. Một số
phim Mỹ khác chỉ chiếu cảnh chiến đấu của lính Mỹ với đối thủ của họ là Việt
Cộng mà không đề cập gì đến những chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Người lính Mỹ cùng cấp tướng tá và ngay cả các viên chức Chính quyền Mỹ ở Nhà
Trắng, ở Ngũ Giác Đài không bao giờ nhìn ra cái khó chịu của người lính Việt
Nam Cộng Hòa bị bắt buộc phải tuân theo những kế hoạch hành quân, những kỹ
thuật chiến đấu nhà nghề theo lối 'đấu thủ', 'giác đấu' của họ. Người lính Việt
Nam Cộng Hòa cũng kiên cường, gan dạ, bất khuất, hiên ngang nhưng không trong
tính cách 'đấu thủ' và 'đối thủ' trong 'đọ sức' để tìm vinh quang cho cá nhân.
Họ - người Mỹ - không bao giờ nhìn ra cái tính cách 'người dân nơi người lính'
của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (dĩ nhiên, tôi không nói đến những hạng
'lính kiểng', những cấp tướng tá di sản của Quân đội Pháp cùng những thứ tướng
tá do hối lộ hay cách nào khác để được lên lon đều đều).
7) Như những 'Nguyễn
Văn Trổi, Nguyễn Văn Bé' và bao bao nữa qua sách báo Cộng sản.
8) Đoạn thơ cũng trong trường thiên 'Bên bỡ vô hạn' của
Victor Hugo:
L' heure approche. Espérez. Rallumez l' âme éteinte!
Aimez-vous! Aimez-vous! Car c' est la chaleur sainte,
C'est le feu du vrai jour,
Le sombre univers, froid, glacé, pesant, réclame
La sublimation de l'être par la flamme,
De l'homme par
l'amour!
(Victor Hugo: Les Contemplations; nrf Poésie/ Gallimard,
Paris 2002, trang 407)