Thursday, February 20, 2014

Tác Giả. Tác Phẩm



LƯU DÂN THI THOẠI
bút luận 25 năm thơ hải ngoại
(Phần I)

A Selected Works of Poetry Critique  
© 2003 Coi Nguon Publishing House
All Rights Reserved
Printed in The United States of America
Library of Congress Control Number: 2002116107
ISBN 0-9712626-6-7

By DIÊN NGHỊ - SONG NHỊ

Chủ trương Biên tp/Trình bày: Song Nhị
Sửa Bản In: Cung Diễm
Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn xuất bản 2003
Bản quyền thuộc Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn.


Mục lục tác giả theo mẫu tự kèm số trang đầu
******************************************
CAO MỴ NHÂN 201 CHU VƯƠNG MIỆN 315 CUNG DIỄM 53  DUY NĂNG 109 DZẠ CHI 339 DƯ THỊ DIỄM BUỒN 373 ĐÔNG ANH 87 ĐỖ BÌNH  383  HÀ THƯỢNG NHÂN 15 HÀ TRUNG YÊN 65 HÀN THIÊN LƯƠNG 213 HOÀNG NGỌC LIÊN 27  HOA VĂN 77  HUỆ THU 247 HUY LỰC 149 KHANG LANG 191 KIỀU MỘNG HÀ 473 LALAN 555 LÊ NGUYỄN 327 LÊ MAI LĨNH 301 LINH QUÂN 439 LƯU TRẦN NGUYỄN 289 MẠC PHƯƠNG ĐÌNH 223 MINH KHOA 525 NAM GIAO 463 NGÂN PHI THƯ 567 NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG 261 NGUYỄN THÙY 123 NGUYỄN TƯ 393  NGUYÊN PHƯƠNG 403 NGÔ ĐỨC DIỄM 417 PHAN KHÂM 429  PHƯƠNG TRIỀU 235 QUAN DƯƠNG 485 QUANG TUẤN 159  SƯƠNG MAI 499 THÁI QUỐC MƯU 363  THƠ THƠ 545  TÔ THÙY YÊN 135 TRÀM CÀ MAU 351 TRẦN THIỆN HIỆP 179 TRẦN THIỆN ĐẠT 449 TRIỀU NGHI 275 TRUNG THÀNH VĂN 509 TUỆ NGA 109  VI KHUÊ  39  VÕ Ý 169 VƯƠNG THANH 535 

 TỔNG  LUẬN

Thi ca gắn liền thời đại, phản ảnh, phóng chiếu chuyển biến từng giai đoạn lịch sử đất nước. Thời chiến tranh ác liệt, thơ xao động, chát chúa tiếng đạn bom, khét lẹt mùi lửa khói. Đó đây, trên từng địa danh, trên mỗi tọa độ núi rừng, đồng bằng, thôn xóm, thị thành, hiện thực đổ nát, tàn phá hằn sâu, con người bị ám ảnh, bất an, sợ hãi trước tai họa bất ngờ, không lường trước.
Từ biến cố 30 tháng Tư 1975 đến nay, đã hơn một phần tư thế kỷ, cuộc chiến Bắc- Nam đã ngã ngủ, nhưng hậu quả và hệ lụy chưa bao giờ chấm dứt. Đêm đen thời Trung cổ của hội chứng Việt Nam khó mờ nhạt đối với lịch sử và lòng người trong cũng như ngoài nước. Và dòng thơ dưới vòm trời tự do ở hải ngoại, trong hai mươi lăm năm qua đã hiện diện như một di chứng thời đại trong văn học sử nước nhà.

Thơ Văn là một viện bảo tàng, nơi lưu trữ mọi bóng dáng thời đại, mọi biến cố lịch sử, mọi ưu tư, hệ lụy trên thân phận của mỗi con người, mỗi đất nước, mỗi dân tộc. Đối với người Việt Nam, do lịch sử trầm kha của dân tộc nên Thơ là chỗ trú ngụ cho đau khổ, cho thở than, là nơi giải tỏa ẩn tình, ẩn ức và là thứ vũ khí đề kháng, chống đối mọi bất công, áp bức, bóc lột của cường quyền, bạo lực.

Một đặc điểm chung trong Thơ Việt Nam là khuynh hướng 'Về Nguồn’. Nguồn đây là Nguồn Cội, Nguồn Gốc. Về Nguồn là trở về với truyền thống Văn hóa Dân tộc, với Quê Cha Đất Tổ, với buổi đầu lập quốc của tiền nhân. Cái khuynh hướng 'Về Nguồn’ nơi thơ Việt Nam chính là khuynh hướng ‘trở về với
Nguồn Cội' và đó là cứu cánh của cuộc sống, cuộc đời của con người và của chung vạn hữu. Trong tâm thức nhà thơ, Nguồn Cội chính là cái “Quê hương tình mộng ban đầu” mà con người  đã lìa bỏ, ra đi để  đắm mình  trong cõi ta bà  tại thế, chìm nổi truân chuyên trăm bề vạn mối. Nói theo Nguyễn Du “Kể từ lạc bước, bước ra ; Tấm thân liệu những từ nhà liệu đi”.(*)

Trong ý nghĩa đó, ‘Về Nguồn’ là một đòi hỏi, một cần thiết, một sứ mạng của tất cả mọi người, của tất cả mọi dân tộc, dù tha phương nơi đất khách hay vẫn lưu cư nơi quê nhà để đưa dẫn cuộc tiến hóa của nhân sinh.

Cái ‘Hướng vọng Về Nguồn’ nơi Thơ Việt Nam, ngoài tính cách gần gũi là trở về với truyền thống Văn hóa Dân tộc, cơ sở từ truyền thống Văn hóa Dân tộc để xây dựng Đất Nước, còn mang một hướng vọng cao xa là ‘trở về với Nguồn Cội’ ban đầu.    
Khuynh hướng 'Về Nguồn’ đó là chất sống âm ỉ đêm ngày nơi nhà Thơ Việt Nam, nơi con người Việt Nam, mà hơn ai hết là những nhà thơ lưu vong, những người con xa lìa đất Mẹ, luôn luôn ước vọng Trở Về, trở về với Quê Hương, với tình tự Dân Tộc.      

Mỗi con người Việt Nam đều bàng bạc một hồn thơ. Tính ‘yêu Thơ’ của người Việt Nam là một trong những điều kiện đưa dân tộc ta hòa nhập vào diễn trình tiến hóa của Nhân loại hướng về Nhân bản hóa toàn diện, hướng về Nhất Thể, mà khuynh hướng 'Về Nguồn’ đã nuôi dưỡng, mơ màng, tiềm phục nơi tâm thức. Còn yêu Thơ, còn ‘làm Thơ’, dù hay, dù dở, là còn âm ỉ tinh thần Dân tộc, là còn hướng về thánh thiện, thăng hoa.*

Trong hai mươi lăm năm qua, với trên hai triệu người Việt sống lưu lạc trên khắp cùng các lục địa năm châu, số lượng người làm thơ có thể lên đến hàng ngàn. Có nhiều nhóm thơ sinh hoạt theo chủ trương, khuynh hướng của mỗi nhóm. Có nhóm chủ trương họp mặt, giới thiệu, trao đổi, diễn ngâm, thưởng ngoạn. (Câu Lạc Bộ Văn Hóa Paris). Có nhóm chủ trương quy tụ tất cả mọi người biết làm thơ, thu nhận không giới hạn số người góp thơ vào một tập thơ chung, bất luận hình thức thế nào, nội dung bài thơ của các tác giả ra sao.  Có nhóm chủ trương in lại những tác phẩm thơ văn giá trị xuất bản tại miền Nam trước năm 1975. (nhóm Tủ Sách Quê Hương của Uyên Thao - Tạp chí Khởi Hành của Viên Linh). Có nhóm quy tụ những nhà thơ trẻ tại hải ngoại, gặp gỡ, sinh hoạt qua mạng Internet, góp thơ in chung những thi tập của nhóm (Suối Nguồn).

Khuynh hướng sáng tác của các tác giả thơ hải ngoại cũng rất đa dạng. Về hình thức, các thể loại“cổ điển” như lục bát, thơ mới, cổ phong, ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt trường thiên... vẫn chiếm ưu thế, vẫn có sức thu hút người sáng tác cũng như giới thưởng ngoạn. Một số nhà thơ sáng tác theo thể loại thơ tự do, phá thể, có vần điệu, có nhạc tính theo “kiểu mẫu” Màu Tím Hoa Sim (Hữu Loan), Bên Kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Giấc Ngủ Chân Đèo (Duy Năng). Đa số thành công và coi như là một sở trường sáng tác.

Một số khác sử dụng thể loại thơ tự do, thơ phá thể, thơ không vần, thơ văn xuôi. Thật ra, loại thơ này đã có từ rất xa xưa. Sau năm 1954, tại miền Nam với sự khởi xướng thơ-tự-do của Thanh Tâm Tuyền, được sự cổ vũ của nhóm Sáng Tạo, nhưng không bao lâu loại thơ này bị người đời quên lãng. Trên báo chí hải ngoại thường vẫn thấy xuất hiện những bài thơ thể loại tương tự. Giới chủ trương loại thơ này như cố ý tạo một bước bứt phá khỏi “xiềng xích” thơ vần, một cuộc “cách mạng”, đổi  mới  hình  thức  thơ. Tuy nhiên, xem ra không được giới  đọc giả yêu thơ mặn nồng đón nhận, thậm chí không được quan tâm.

Về nội dung, lớp nhà thơ cũ, và những người thuộc thế hệ cùng thời, mới làm thơ sau khúc ngoặt định mệnh 1975, thường làm thơ hoài niệm, gởi gắm tâm tư, thổ lộ lòng “trung quân ái
quốc” cùng chí khí, hoài bão của mình trước sứ mệnh “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Có một khuynh hướng tuy không đông đảo nhưng tương đối ồn ào với loại thơ tranh đấu. Nhiều người gọi đó là loại “thơ khẩu hiệu”, nó có tác dụng phục vụ nhu cầu đấu tranh chính trị giai đoạn. Một khuynh hướng phổ quát nhất, đông đảo nhất từ xưa nay là Thơ Tình. Thơ tình thuộc phạm trù tâm cảm, phóng tứ từ “mệnh lệnh” của con tim, có liên hệ mật thiết với chủ thể của mối rung động, do đó thơ tình có nhiều trình độ từ a đến z.

Một khuynh hướng khác có tính thời thượng, được một số tờ báo và tạp chí hỗ trợ bằng cách ưu tiên đăng tải, đó là loại thơ tối nghĩa. Ngôn ngữ của loại thơ này có tính cách “siêu phàm”, xa lạ. Người đọc không thể hiểu được ý nghĩa của bài thơ. Có người cho rằng đây là một cách phô trương kiến thức (rỗng) và chữ nghĩa (mù mờ) mà có thể ngay cả tác giả cũng không biết mình đang nói gì!

Một khuynh hướng khác nữa là loại thơ dâm tục. Bằng “ngôn ngữ thơ”, tác giả của nó đã trần tục hóa con người, trần tục hóa tình ái, đồng hóa lộ liễu thực thể con người với con vật. Loại thơ dâm tục hoàn toàn đi ngược lại đạo đức trong văn hóa Đông phương, nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng.  Điều đáng suy nghĩ là loại thơ này không phải xuất hiện trên những tờ báo chợ, báo quảng cáo thương mại, mà lại được trải đầy trên một vài tờ tạp chí, tự nhận là thơ, là văn học.

Đứng trước tình trạng của những khuynh hướng thơ như vừa nói, một số người cho rằng đó là cái tất yếu của chủ nghĩa tự do, nhất là cộng đồng người Việt hải ngoại đang sinh hoạt trong một môi trường vô chính phủ. Có nhiều người tỏ ra quan ngại “cỏ dại sẽ che lấp hoa màu”, cái xấu sẽ trùm lên cái hay, cái đẹp. Thơ hải ngoại sẽ bị đánh giá là một mớ tạp nham. Nhiều người  khác  vẫn  tỏ  ra bình  thản, lạc  quan, đặt  hết tin tưởng vào những nhóm thơ, những tập san, tạp chí văn học có chủ trương đúng đắn. Tin vào sự đào thải tất yếu của thời gian.

Tình trạng xuất bản thơ, in thơ tại hải ngoại có lúc gần như là một phong trào. Nhiều tập thơ được sáng tác, in ra vội vã, chứa đựng một nội dung hoặc tẻ nhạt vô bổ, hoặc thù tạc, tình cảm riêng tư, không nói lên được điều gì bổ ích (cho văn học) hay làm đẹp (cho văn chương). Nhiều tập thơ như vậy đã được tác giả tổ chức ra mắt tốn kém, long trọng, với bảng hiệu, bích
chương, thư mời: “Chiều Văn nghệ Ra Mắt Thi Phẩm XYZ của Thi Sĩ RMK...” Những người này thật sự bất cần và không tự nhìn vào khả năng làm đẹp văn chương, làm giàu văn học mà chỉ cốt tạo cái danh (nhà thơ, thi sĩ). Hiện tượng đó xem ra vẫn tiếp diễn đều đặn, thường xuyên ở một số tiểu bang tại Hoa kỳ.

Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn với chủ trương chọn lọc, nhằm góp phần nhỏ nhoi vào dòng văn học hải ngoại bằng những tác phẩm khả dĩ tồn tại với thời gian. Việc tuyển chọn dựa theo tiêu chuẩn: Thơ phải sáng lạng, phải có khí lực, phải có tác dụng ‘thăng hoa’, hướng tới cứu cánh chân, thiện, mỹ’. Thơ phục vụ nhân sinh, hướng thiện; Thơ thể hiện, hòa nhập nỗi thao thức, trăn trở của tác giả, của nhà thơ vào những giai đoạn thăng trầm, vào vận mệnh chung của đất nước, của dân tộc, chứ không chỉ rên rỉ đau thương, thở than thân phận, oán trách cuộc đời, hoài cổ mênh mang, hận thù bất tận. 

Trong hơn năm năm qua, Cội Nguồn là nơi gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu đó. Các nhà thơ đã đến với Cội Nguồn cùng một ý hướng. Bỏ quê hương ra đi, Quê hương lùi vào quá khứ, nhưng hình bóng quê hương, quá khứ vẫn mãi hiển hiện, hằn sâu giữa hiện trạng tâm thức người dân lưu lạc. Hai mươi lăm năm, luân lưu theo chiều dài năm tháng, tiếng nói ấy đã hiện thực thành vần điệu tiêu biểu. Tiếng nói ấy chính là nhịp cảm xúc của thi ca, vọng về từ nghìn trùng cách trở đại dương của những người con, lưu dân xa xứ.

LƯU DÂN THI THOẠI, tác phẩm hình thành hôm nay là kết tụ từ những trăn trở, thao thức qua trình tự của một giai đoạn lịch sử đầy biến động tai ương, đổ ập xuống thân phận, khoét sâu vết thương lòng của hàng triệu người con, lưu dân Việt khắp chân trời góc bể, cùng nhìn về một hướng: nguồn cội quê hương.

Khi chúng tôi bắt tay hoạch định hình thành tác phẩm này, Cơ  Sở  Thi  Văn  Cội  Nguồn  dự  liệu chủ yếu nhắm vào thành phần người làm thơ thuộc thế hệ trẻ sau năm 1975. Trải qua sau hơn năm năm tìm đọc, sưu tầm những bài thơ đăng rải rác trên các báo, tập san, tạp chí văn học nghệ thuật có uy tín tại hải ngoại, cùng những tác phẩm đã xuất bản, con số tác giả trẻ ghi nhận có hàng trăm người, không chỉ riêng tại lục địa Hoa Kỳ mà cả các quốc gia và lục địa khác.
Tuy nhiên, khi tiến trình thực hiện bắt đầu, nhiều vấn đề được đặt ra, cần xem xét lại, có những trở ngại nổi lên.
- Có một số tác giả chúng tôi không liên lạc được vì không có địa chỉ, hoặc địa chỉ đã thay đổi.
- Có những tác giả chúng tôi tiếp xúc được, đa số hoan nghênh, ủng hộ việc làm của chúng tôi, nhưng khiêm tốn hứa hẹn sẽ tham gia tích cực trong tương lai gần.
- Một số tác giả khác, ngoài dự liệu, được sự giới thiệu qua trung gian của những văn thi hữu khác, nhưng chúng tôi cần thêm thời gian tìm hiểu, thẩm định thơ của các bạn ấy (theo tiêu chuẩn chúng tôi đặt ra từ đầu).

Sau cùng tuyển tập quy tụ 48 tác giả gồm 11 nữ, 37 nam, hiện sinh sống tại hải ngoại, trong đó có 18 tác giả làm thơ từ trước năm 1975, số còn lại làm thơ sau khi định cư ở nước ngoài. 32 tác giả là quân nhân, viên chức VNCH. Có 5 là nhà giáo, 5 làm nghề tự do tại Sài Gòn trước năm 1975. 4 tác giả sinh sau năm 1975 hoặc còn thơ ấu khi miền Nam đổi chủ. 1 nhà thơ quá cố (Duy Năng).

Danh tính tác giả không xếp theo vần mẫu tự, mà theo thứ tự năm sinh. Về danh xưng đại từ ông, bà, anh, chị hay cô là nhằm phân biệt tuổi tác và phần nào cũng do ý muốn của tác giả.  Phần tiểu sử được  lồng vào  nội  dung luận giải, tạo thành toàn bộ nhận định về cuộc đời và tác phẩm của tác giả, khuynh hướng, đặc thù, trước khi giới thiệu một số bài thơ chọn lọc.
Trong tập này thế hệ nhà thơ trẻ đứng cuối sách, nhưng chúng tôi tin rằng bạn đọc sẽ đồng ý với chúng tôi rằng ở đó là những bài thơ hay, những bông hoa mới lạ, có sức mạnh thu hút, quyến rũ người thưởng ngoạn nghệ thuật.

Phần thơ trích của mỗi tác giả, chúng tôi chọn lựa mỗi tác giả năm bài, hay nhiều hơn, tùy theo dài, ngắn. Số trang có thể chênh lệch, không đồng đều nhau, điều đó ngoài ý muốn của chúng tôi. Mỗi tác giả có thể sẽ chiếm từ 10 đến 15 trang sách. Tuyển tập sẽ dày, nhưng nếu trích ít bài hơn sẽ không nói lên hết được nội dung và quá trình sáng tác của mỗi nhà thơ.   
Con số 48 trong tuyển tập này mới chỉ là một phần so với số lượng người làm thơ đông đảo hiện nay trong vườn thơ hải ngoại đang nở rộ, phong phú cả sắc lẫn hương.

Sau hơn ba năm, kể từ phiên họp đầu tiên của Ban Điều Hành, và từ khi Thư Mời được gửi tới các thi hữu, (ngày 12-12-1999), công việc thu nhận bài, viết khảo luận  và tiến trình thực hiện các khâu làm bìa, in ấn kéo dài đến cuối năm 2002 sách mới in xong. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Chúng tôi đã cố gắng bằng tất cả thiện chí để tác phẩm đạt được phẩm chất cao nhất về nội dung và hình thức.

Khi làm công tác biên soạn, chúng tôi cố gắng khách quan nhận định, luận bàn vô tư, nhưng chắc chắn không thể không có những thiếu sót, phiến diện. Chúng tôi thành khẩn lắng nghe những lời chỉ giáo của các bậc cao minh, những góp ý của bạn đọc yêu thơ xa gần.
Nhằm đóng góp khả năng giới hạn của mình vào kho tàng văn học Việt Nam tại hải ngoại đang ngày càng lớn mạnh, chúng tôi hy vọng sẽ được sự tiếp tay của những nhà văn, nhà thơ, của các mạnh thường quân, đặc biệt là các bạn trẻ đang hăng hái bước đi trên đường Thơ, hợp tác, trao đổi, bằng cách gửi cho chúng tôi tác phẩm đã in, hoặc thơ chưa in để chúng tôi có cơ hội nghiên cứu thực hiện tiếp LƯU DÂN THI THOẠI tập II trong tương lai.

Trân trọng,
San José, tháng Mười năm 2002
DIÊN NGHỊ - SONG NHỊ

*************

HÀ THƯỢNG NHÂN

Khoảng tháng Sáu năm 1973, nhân buổi họp mặt văn nghệ tại tòa soạn nhật báo Tiền Tuyến, tọa lạc tại số 2bis đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn, có chiến hữu hỏi ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc, Chủ bút báo này về vị Chủ nhiệm Hà Thượng Nhân – Hà Thượng Nhân tên thật hay bút hiệu? Và ý nghĩa như thế nào? Ký giả Lô Răng cười đáp: Hà Thượng Nhân là bút hiệu, là con nguời của làng Hà Thượng. Thế thôi.
Người làng Hà Thượng được động viên vào Quân Đội Quốc Gia (*) những năm đầu thập niên 1950, khi ông từ  “Vùng Kháng chiến” trở về Hà Nội, di cư vào Nam, bởi ông đã sớm nhận chân được chủ trương, đường lối của đảng Lao Động (tiền thân đảng Cộng sản) Việt Nam, ngày càng lộ rõ chân tướng chư hầu, tay sai của Cộng Sản Quốc tế. Thành phần, giai cấp tiểu tư sản như ông, sớm muộn cũng bị loại bỏ, thanh trừng:

Nói nhân nghĩa chẳng qua lừa bịp
            Nói hy sinh có dịp giàu to
            Chết vì một chữ Tự do
            Là thôi! Lỡ cả chuyến đò hoa niên.
Vào Quân đội, cấp bậc Đại Úy, làm việc tại Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Năm 1957 lên Thiếu tá, giữ chức Phụ Tá Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn. Ông chứng tỏ là mẫu người giàu kinh nghiệm về công tác Văn Hóa, tâm lý; đồng thời cùng là một người yêu thích thi ca. Có điều lạ, ông không bao giờ chạy thơ ông trên mặt báo, dù là báo nhà. Theo lời yêu cầu của nhà báo Như Phong, ông nhận phụ trách mục “Đàn Ngang Cung” trên nhật báo Tự Do. Năm 1958 ông phụ trách thêm mục “Những Điều Trông Thấy”, viết hàng ngày trên báo Ngôn Luận dưới bút hiệu Nam Phương Sóc.
Những bài thơ trào lộng đều đặn trong mục này đã nói lên nhiều điều, nhiều vẻ về những con nguời quyền chức, về những hiện tượng “khó coi” trong xã hội miền Nam thời bấy giờ. Vừa nhận diện, điểm mặt, vừa xây dựng từ  “thói hư tật xấu” chuyển hóa thành cái lành mạnh, cái tốt đẹp cho chế độ chính trị và cuộc sống của quần chúng miền Nam.
Thơ ông viết với số lượng đáng kể, đủ thể loại dành cho sinh hoạt thi đàn, cho bạn hữu thưởng thức, cho những trao đổi, đàm đạo... Ông sở trường và rất yêu thích xướng họa thơ. Ông rất nhạy cảm chữ nghĩa, “xuất khẩu thành thơ” mà người xưa từng trân trọng khả năng này. Giới thi nhân quý trọng và cảm mến thi tài Hà Thượng Nhân, khi ông thể hiện những bài thơ ông làm tức thời trước một số bạn hữu hiện diện với đầy đủ tên gọi mỗi người và ý nghĩa của nó.
Hình như ông làm thơ đúng với nhận định “cuộc đối thoại giữa nhà thơ với cõi đời” thầm lặng, sâu kín hơn là in thơ thành sách, phổ biến trên thị trường văn chương chữ nghĩa. Chúng tôi nghĩ rằng, giá như ông làm thơ trước năm 1945, tên tuổi và thơ ông sẽ ngang tầm với Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư... Và có lẽ ông còn đứng trên một số nhà thơ tiền chiến khác trong “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân. Đọc một số thơ Ông trước năm 1975, so chiếu thơ ông ngày nay tại hải ngoại, dáng dấp, giọng điệu thơ ít thay đổi, vẫn là dòng cảm xúc tinh tế, mượt mà, trẻ trung, ấn tượng trong các thể loại truyền thống chân phương. Bản tính vốn hiền hòa, đôn hậu, khiêm tốn, ông hòa nhập xuôi dòng tư tưởng Lão Trang, một phong cách sống an nhiên giữa trần lụy đầy bon chen, phức tạpï:
            Sống chỉ lấy cái tâm làm trọng
            Gửi ngàn sau mấy giọng tiêu tao
Cuộc đời thế chẳng đẹp sao?
            Lựa là cứ phải anh hào thần tiên
            Chẳng cầu cạnh, chẳng ưu phiền
            Miễn sao lòng cứ an nhiên là mừng.
                                    (Không Đề)
Qua lăng kính nhiều mặt của thi nhân, quan niệm tình yêu phải là tình yêu rộng lớn, không biên cương, và một khi tình yêu được khắc chạm vào thi ca nghệ thuật, tình yêu càng bất tử:
            Ta có một tình yêu
            Bao la như trời đất
            Ta viết vào trang thơ
            Tình yêu ta không mất
                        (Tình Yêu)
Nội hàm chí thiết, đồng thời cũng là nhu cầu hòa cảm, kiếm tìm hạnh phúc giữa đời thường, tình bạn tạo động lực liên kết chuyển đổi tâm tư tình cảm, chắp cánh cho ý sống vươn lên:
            Ta từ có bạn đến giờ
            Lời thơ lại bỗng bất ngờ thành vui
Khi đã coi thường danh vọng phù phiếm, quyền lợi nhất thời, ông càng gần gũi đồng đội, bạn bè giữa vòng vây tù ngục cải tạo. Trung tá Hà Thượng Nhân thường nói với những ai dễ yếu lòng, sợ hãi bạo lực của kẻ thù rằng: “Nếu không có phong ba - Thì cây lớn và cỏ hèn cũng vậy”. Phải biết chịu đựng khổ đau, thử thách, đó chính là sự tôi luyện nhân cách để vươn lên phía trước ngày mai:
Nếu như không đau khổ
Làm sao biết căm hờn
Càng muôn trùng sóng gió
Tay chèo càng vững hơn
Đêm âm u của vũ trụ, nhân sinh quan lạc quan – bó đuốc thắp sáng của niềm tin - tín hiệu cùng tồn tại bền bỉ ý thức tự do của con người:
            Chúng ta cùng có nhau
            Nhìn nhau vui hớn hở
            Trên luống cày khổ đau
            Hoa Tự do vẫn nở
Nhà thơ Hà Thượng Nhân đã ngẩng cao đầu khi ra khỏi trại tù cải tạo trên đất Bắc, rồi  cùng với bạn bè, đồng đội lần lượt đến quê hương mới tỵ nạn, thấm thía, chua xót cuộc bể dâu lịch sử. Từ lục địa Hoa Kỳ mênh mông, vĩ đại, ông nhìn về thủ đô Sài Gòn ngày cũ mà cảm nhận như xa xôi diệu vợi hơn cả từ trái đất đến mặt trăng, cũng chỉ vì khoảng cách chia của hệ tư tưởng khác biệt:
Người ta lên mặt trăng
Mặt trăng gần quá nhỉ!
Anh muốn về Sài Gòn
Sài Gòn xa đến thế!

Sài Gòn xa hơn trăng
Trăng đêm đêm vẫn thấy
Lòng Anh, em thấu chăng
Thấm trên từng trang giấy.
            (Nhìn Trăng)
Kinh qua hiện thực đầy biến động lịch sử, thơ ông biểu hiện lời tâm huyết của thời đại. Phong phú ngôn ngữ, ý tưởng, thơ biểu đạt được phần sâu chính luận lý tưởng, mẫu người quân tử, đạo lý Nho giáo thanh lịch, tài hoa...Thơ Ông tự nhiên như hơi thở - một chân khí tác dụng của sự sống con người vượt lên tầm cao trí tuệ.
Không cần thép, thơ vẫn là bó đuốc
Thơ nâng người cao sát với thần linh.

Thơ Hà Thượng Nhân đủ thể loại: Lục bát, Thất ngôn Đường thi, Ngũ ngôn, Song thất lục bát, Cổ phong trường thiên, thơ mới, thơ phá thể, Tứ tuyệt... dù ở thể loại nào thơ ông cũng điêu luyện, đặc sắc. Trong giới thơ văn người ta vẫn thường gọi ông là Hà Chưởng môn để tỏ lòng ngưỡng mộ thi tài đáng kính.

(*) Nghị định do đích thân Tổng thống Ngô Đình Diệm ký, nguyên văn:
Vì nhu cầu công vụ, nay điều động Ông Phạm Xuân Ninh phục vụ Quân Đội với cấp bậc Đại úy Sĩ quan Trừ Bị.

Thơ trích

S A Y

Viết gì đây? Nói gì đây?
Ồ Xuân! rượu có làm say chúng mình?
Đỏ hoe bóng điện đô thành
Nhắc làm chi bãi dâu xanh đường mòn?
Sắt son, thôi kệ sắt son
Chưa vui gọi cả Saigon cùng vui
Ở đâu rộn rã tiếng cười?
Ở đâu tìm lại con người ngày xưa?
Nhiều đêm trở gối nghe mưa
Dẫu chưa rượu đắng vẫn thừa lòng đau
Áo cơm lầm lỡ mãi nhau
Văn chương chung một mối sầu cổ kim
Bên ta bóng vẫn lặng im
Khó trong bọt rượu đánh chìm nhớ thương.

hà thượng nhân

 MÙA THU NHỚ

Ngõ hẹp rụng hoa vàng
Bướm bay đầy cửa sổ
Ta bỗng gọi tên nàng
Áo vàng lồng lộng gió

Ta bỗng rưng rưng nhớ
Mùa Thu vàng ánh trăng
Mùa Thu từ dạo đó
Mùa Thu lại vừa sang

Ta nhớ con chim nhỏ
Hót trên cành bằng lăng
Ta nhớ câu thơ cổ
Bông cỏ may bên đàng

Ta nhớ, ôi ta nhớ
Mùa Thu ta gặp nàng.

hà thượng nhân

MAI EM, ANH VỀ

Anh cầm tay em
Bàn tay khô héo
Anh nhìn mắt em
Gió lùa lạnh lẽo
Anh nhìn lòng mình
Mùa Đông mông mênh

Cỏ xanh mùa Xuân
Còn in dấu chân
Trăng non mùa Hạ
Ướt đôi vai trần

Có xa không nhỉ?
Ngày xưa thật gần

Mai em, anh về
Cỏ ôm bước đi
Mưa dầm rưng rức
Chạy theo bờ đê

Sài Gòn! Sài Gòn!
Không là quê hương
Mà sao mình nhớ
Mà sao mình thương?

hà thượng nhân

KHÔNG ĐỀ

Thơ lúc trẻ chán chường bi phẫn,          
Tuổi trẻ ta cùng quẫn vậy sao ?
Đời dù là giấc chiêm bao,
Trăm năm lại có lẽ nào xem khinh ?
Nay tóc bạc thình lình ngoảnh lại,
Nhớ những năm trẻ dại ngông cuồng.
Sống chưa thực, dám buông tuồng,
Chẳng qua mấy chén rượu suông canh tàn,
Nhục đất nước ruột gan lửa đốt,
Nghĩ đến người khí cốt trượng phu.
Những mong liều sức đuổi thù,
Râu mày thẹn với cơ đồ tổ tiên.
Rồi đất nước triền miên súng đạn,
Bạn bè thêm dày dạn phong trần.
Riêng mình dừng bước phân vân.
Ừ đâu cách mạng ? Đâu cần chúng ta !
Nói nhân nghĩa chẳng qua lừa bịp,
Nói hy sinh có dịp giàu to.
Chết vì một chữ tự do,
Là thôi ! Lỡ cả chuyến đò hoa niên.
Ta chẳng phải người hiền thuở trước,
Giữa ban ngày đốt đuốc tìm ai.
Chẳng mong bước tới thiên thai,
Chỉ mong gặp được một vài tri âm.
Sống chỉ lấy cái tâm làm trọng,
Gửi ngàn sau mấy giọng tiêu tao.
Cuộc đời thế chẳng đẹp sao ?
Lựa là cứ phải anh hào thần tiên ?
Chẳng cầu cạnh, chẳng ưu phiền,
Miễn sao lòng cứ an nhiên là mừng.
Người đừng hỏi cũng đừng thắc mắc,
Chuyện thị phi nào chắc đúng sai.
Trời ban cho một chữ tài,
Không dùng đem bán cho ai bây giờ ?
Thì ta lại làm thơ vì bạn,
Kẻ đồng tâm chán vạn gần xa.
Nếu người chịu khó đọc ta,
Trăm muôn ngàn chữ chỉ là men thu .

hà thượng nhân

******************
HOÀNG NGỌC LIÊN

Kể từ Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, một nền văn học mới hình thành và phát triển tại miền Nam Việt Nam theo trào lưu tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. Nền Văn Học đó đã đem lại cho đời sống tinh thần người dân nửa phần đất nước một luồng sinh khiù mới. Giới cầm bút, các văn nghệ sĩ đã một thời tự do sáng tác, tự do thể hiện tình cảm, suy nghĩ theo tư duy của mình. Hai mươi năm Văn Học Miền Nam từ 1954 đến 1975 phong phú về số lượng cũng như nội dung tác phẩm. Hoàng Ngọc Liên là một trong nhiều nhà văn, nhà thơ đã thành danh vào thời kỳ này. Điểm qua các tác phẩm mà ông đã in, cho thấy tác giả là một cây bút sung sức trong hai mươi năm tồn tại của Văn Học Miền Nam với bảy tập thơ, văn:
 Hình Ảnh Những Mùa Trăng *tập truyện (NXB Nam Sơn, Sài Gòn 1959)  Nhớ Thương *thơ ( Lê Thanh Thư Xã, Sài Gòn 1962) 

Vẫn Còn Thương *thơ (Giao Điểm Sài Gòn 1964)  Khung Trời Tưởng Nhớ *thơ (Trí Dũng, Sài Gòn 1966)  Đoàn Quân Mũ Đỏ *truyện dài (Chấn Mỹ, Sài Gòn 1969)  Theo Bước Anh Đi * truyện dài (Khai Trí, Sài Gòn 1972)  Tuyến Lửa Đầu *phóng sự tiểu thuyết (Khai Trí, Sài Gòn 1974) 
Hoàng Ngọc Liên bị tù Cộng Sản suốt 13 năm, từ 1975 đến 1988. Ông được định cư tại Hoa Kỳ (HO 12) từ tháng 6 năm 1992. Ông làm báo Văn Nghệ Tiền Phong (Virginia) 2 năm 1992-1994 sau đó ngụ tại thủ phủ Raleigh của  tiểu bang North Carolina, tiếp tục viết cho nhiều báo tại Hoa Kỳ và Canada. Năm 1999, Hoàng Ngọc Liên cho in Tập Tản Văn “Viên Đạn Cuối Cùng” do tạp chí Văn Tuyển ấn hành. Năm 2001, Văn Tuyển tái bản cả hai cuốn “Viên Đạn Cuối Cùng” và “Đoàn Quân Mũ Đỏ”. Tác giả dự định sẽ in tuyển tập thơ “Một Phương Trời Nhớ”.
Vẫn với “văn phong” của thời “Nhớ Thương” nở rộ trong làng thơ của Sài Gòn thập niên 60, nhưng âm điệu trong thơ ông hôm nay, từ sau cuộc đổi đời 30-4-1975 mang  nỗi u uất nặng nề trên cả những bước chân. Năm tù Cộng Sản đầu tiên trôi qua trong trại “cải tạo”, mới bước đầu nếm vị phong trần, nhà thơ đã thấy mình tàn tạ, già nua trong sự tàn tạ chung của giang sơn đất nước, dẫu lòng còn náo nức trước buổi xuân về:
Tết năm Bính Thìn (*) đầu đã bạc
Thân nặng nề trên những bước chân
Kiếng mắt lại nhòa thêm nửa độ
Làm thơ thiếu hứng chẳng ra vần
Mà nghe nao nức mùa Xuân tới
Còn có gì đâu để đón Xuân.
Tết trong tù là một trong những cảnh huống “dữ dội” nhất, nỗi nhớ xoáy buốt tâm trạng người tù cải tạo khi nghĩ về người thân, về mái ấm gia đình, về hương khói bàn thờ tổ tiên cội rễ. Tác giả Hoàng Ngọc Liên trong bài hành Những Mùa Xuân

Qua đã có lúc du hồn về cõi mộng mà nghe tiếng pháo Giao thừa nổ giòn ran, mà mơ ơn trời cho đoàn tụ, mà nghe hồi trống chèo thôn Bắc, hồi chuông lễ xóm Nam, trong khói hương chùa nghi ngút... để khi tiếng kẻng trại tù xé tan bầu không khí tĩnh lặng lúc 5 giờ buổi sáng, chợt giật mình trở về thực tại:
Trắng tay mộng vỡ đâu còn mộng
Đã hợp rồi sao lại cách ngăn?
Sông núi nào đây? Sông núi cũ
Mà trong hội tụ có ly tan!
Người tù cải tạo Hoàng Ngọc Liên đã “Chấp nhận theo dòng lịch sử. Để xem thắng bại cuộc cờ tàn” thế mà chỉ  một năm dưới ngọn đòn thù của phe thắng cuộc, nhà thơ đã thấm thía được cái giá nước mất nhà tan mà ông phải trả:
Sau tháng Tư đen vào thử thách
Giữa cuộc chơi này tạm ghé chân
Chỉ mới bắt đầu mùi tục lụy
Nào đâu vị đắng, nỗi gian truân
(Bài Hành Những Mùa Xuân Qua)
Cảnh náo nức đón Xuân mừng Tết là một truyền thống từ nghìn xưa đã in đậm vào tâm khảm mỗi người dân Việt. Ngày xuân, đầu năm mới là ngày sum vầy đoàn tụ. Giao Thừa là giờ phút thiêng liêng của quây quần sum họp, của lời chúc tụng, của ly rượu mừng, của lễ bái tổ tiên. Với tác giả, từ thân phận ly hương, lưu lạc, mỗi độ xuân về, nhà thơ dấy lên nỗi thao thức hoài vọng, ước mơ... rồi cất tiếng hỏi người; nhưng cũng là tự hỏi:
            Có một Xuân nào về hội tụ
            Quê hương vàng trải cánh hoa tim
            Núi sông, đồng ruộng, làng thôn cũ
            Có một Xuân nào không hỡi em?
                                      (Có Một Xuân Nào?”
Từ tâm trạng nhớ nhà, nhớ nước, trước buổi Xuân về, tác giả hằn lên trong tâm tư niềm ước mơ hy vọng một mùa Xuân quê hương tưng bừng rộn rã; đất nước đổi thay, nắng vàng tươi thắm màu cờ, phất phới dưới bầu trời Dân chủ,Tự do:
            Có một Xuân nào rộn bước chân
            Thánh đường, chùa miếu tiếng chuông ngân
            Hồ Gươm thay sắc cờ dân chủ
            Nắng tự do tràn ngập Bắc Nam.
                        (Có Một Xuân Nào)
Ra đi đã hai mươi lăm năm chưa một lần về lại, biết bao người vẫn hứa với nhau một cuộc đoàn viên, nhưng thời gian cứ trôi qua, biển vẫn mãi trùng dương cách trở, người vẫn cứ mỏi mắt trông chờ. Cửa Bình Đại, Bến Tre hai mươi, hai mươi lăm năm vẫn ngóng theo người viễn xứ:
            Năm nay chị cũng chưa về được
            Dù biết rằng em mỏi mắt chờ
            Biển vẫn mãi trùng dương cách trở
            Mênh mông sóng nước vẫn xa bờ!
Chị đành nhắn với em:
            Giao Thừa em thắp hương thờ Tổ
Thay chị dâng lòng cúng Mẹ, Cha
            Là lúc, ở quê người chị khóc
            Bao nhiêu năm xa nước, xa nhà!
                           (Thư Xuân Gửi Em)
Đặt hết tâm tưởng về quê hương xứ sở, nơi có núi sông, đồng ruộng, làng thôn cũ, người yêu xưa, bỗng một hôm, tác giả nhận được hung tin quê nhà tơi tả giữa thiên tai bão lụt. Người xưa đã bị cuốn chìm theo dòng nước. Một chia ly bất ngờ thắt quặn khi lá thư của nàng vừa nhận, chưa kịp hồi âm. Trong chuỗi ngày xa cách, những cánh thư hẹn hò “nối lại giấc mơ xưa”, để không còn nhớ thương, ray rứt, mong chờ. Tất cả đã hết khi người xưa đã từ biệt thế gian. Tác giả cất lên tiếng buồn tự hỏi: “Có một cõi nào như vậy, không? Em!”

CÓ MỘT XUÂN NÀO ?

             Có một Xuân nào về hội  tụ,
            Quê Hương vàng trải cánh hoa tim.
            Núi sông, đồng ruộng, làng thôn cũ,
            Có một Xuân nào không, hỡi em?
                                                        H. Ng. L

Đất chuyển mùa sang, Xuân lại đến,
Quê người trong nỗi nhớ khôn quên.
Lung linh giao cảm làn hương nến,
Nghi ngút dâng lời nguyện nửa đêm.

Ánh mắt nào, Xuân lên hợp ý,
Tóc xanh nào, hoa nụ đầu Xuân?
Thơm thơm vải mới vừa “luôn” chỉ,
Bút mực nào? Thơ mới một lần?

Bâng khuâng vào mộng, còn hay muộn,
Cung phím nào đâu, nhạc khởi hành.
Làn gió nào đâu, tà áo cuốn,
Lửa nào loang sáng đỏ rừng xanh?

Tuyết trắng triền non phủ cõi xa,
Gió nào pha trắng khúc hoan ca.
Bản xa, mái lá nào lên khói,
Bướm vắng, vườn hoang nào lá hoa?

LƯU DÂN THI THOẠI 31
Bỗng nhiên Mùa Xuân qua thật mau,
Lời Xưa còn đó, người nơi đâu?
Mông lung hương khói đêm Trừ Tịch,
Quán khách âm thầm thương nhớ nhau.

Có một Xuân nào rộn bước chân,
Thánh đường, chùa miếu tiếng chuông ngân.
Hồ Gươm thay sắc cờ dân chủ,
Nắng tự do tràn ngập Bắc Nam?

Có một Xuân nào về hội tụ,
Quê Hương vàng trải cánh hoa tim.
Núi sông, đồng ruộng, làng thôn 
Có một Xuân nào không, hỡi em?

hoàng ngọc liên


CÓ MỘT CÕI NÀO ?

Mới nhận thư em, chưa kịp hồi âm
Đã nghe bão lụt tràn qua làng chài lưới
Trong gió thét, những oan hồn tức tưởi
Đáy sông nào vùi lấp xác thân em?

Ngày ra đi, chưa lời hứa trao duyên
Nhưng hò hẹn đã ghi trong ánh mắt
Nhưng lưu luyến đã mặc nhiên ký thác
Dù chưa ai thú nhận một lần thương.

Mỗi hoàng hôn bên ghềnh đá, bờ nương
Vẫn mỏi mắt hướng về làng thôn cũ
Vẫn ẩn hiện giữa khóm dừa lá rũ
Bên dòng sông buông lưới bóng hình em.

Đời tha hương trên đất khách, nhớ từng đêm
Giấc ngủ ru êm miền Cửu Long sóng vỗ
Những cánh nhạn đi, về chất đầy thương nhớ
Hẹn một ngày nối lại giấc mơ xưa.

Bỗng bão lụt tai ương chụp đến bất ngờ
Tàn phá thôn làng ven sông chài lưới
Em vượt thoát khỏi biên cương chờ đợi
Thân lòng sông mà hồn cõi thanh cao.

Hẹn cùng nhau, ôn lại chuyện năm nào
Trong một cõi không còn xa cách nữa
Không ray rứt chờ mong thương nhớ
Có một cõi nào như vậy không? Em!

hoàng ngọc liên

******************
VI KHUÊ

Vi Khuê tên thật là Trần Trinh Thuận, chánh quán Thừa Thiên- Huế. Bút hiệu này đã xuất hiện từ những năm giữa thập niên 50, khi bà còn là biên tập viên, xướng ngôn viên đài phát thanh Huế. Bà chính thức xuất hiện trên thi đàn miền Nam với tập thơ Giọt Lệ đã in và gửi đi dự thi Giải Văn Học Nghệ Thuật Đệ Nhị Cộng Hòa. Giọt Lệ đã cùng hai tác phẩm khác vào chung kết. Đây là thời kỳ Vi Khuê đang ở chức vụ Hiệu trưởng Trung Học đệ nhị cấp Văn Khoa, thành phố sương mù Đà Lạt.
Sau biến cố 30 tháng Tư 1975, bà cùng gia đình vượt biên, đến Mỹ định cư, bà đã sớm hội nhập vào sinh hoạt cầm bút, một lãnh vực vốn là sở trường, sở thích và là giấc mơ một đời của bà. Từ năm 1980, Vi Khuê cộng tác với hầu hết các tạp chí văn học tại hải ngoại của cộng đồng Việt như các tờ: Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Thời Luận ...Từ năm 1982, là cây bút chủ lực của nguyệt san Diễn Đàn Phụ Nữ, phụ trách nhiều mục với các thể loại thơ, văn, ký dưới nhiều bút hiệu: Vi Khuê, Đào Thị Khánh, Đoàn Văn, Nguyễn Thị Bình Thường. Từ năm 1996 bà chuyển qua cộng tác với Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn trên nhật báo Thời Báo, Bắc California, Hoa Kỳ.
Vi Khuê là một trong số ít người cầm bút ở hải ngoại có tên trong Tự Điển Tiểu Sử Nhân Vật Quốc Tế (Dictionary of International Biography) ấn hành tại Cambridge, Anh  quốc; Và trong Tự Điển American Biographical Institute, Inc (ABI), ấn hành tại Hoa Kỳ. Ngoài thi phẩm Giọt Lệ *thơ 1971, tại hải ngoại, từ năm 1985 đến năm 2001 Vi Khuê đã ấn hành một số lượng tác phẩm thơ văn phong phú về cả hình thức lẫn nội dung:
 Cát Vàng *thơ 1985  Ngựa Hồng Trên Đồi Cỏ * văn 1986  Tặng Phẩm Tình Yêu *thơ 1991  Những Ngày Ở Virginia *văn 1991  Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ *văn 1993  Hoa Bướm Vườn Thơ Tôi *thơ 1994  Băng Thơ 1995  CD thơ Vi Khuê 1997   Thơ Trong Mưa và Hoa [Poems in Rain and Flowers] * thơ 2001. Ngoài ra Vi Khuê còn đóng góp tác phẩm trong 15 tuyển tập thơ văn tại hải ngoại.
“Thơ Trong Mưa và Hoa” là tuyển tập thơ bằng ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp ngữ. Đã có nhiều văn nghệ sĩ, thức giả nhận xét thơ Vi Khuê dưới nhiều khía cạnh, lăng kính: tình yêu đôi lứa, đất nước quê hương, triết lý nhân sinh, biển dâu thế sự. Nhận xét vô tư, trung thực - có, nhưng cũng không tránh được một số ý kiến có phần chủ quan....
Thơ Vi Khuê đa dạng hơn thế, càng chịu tìm kiếm, càng phát hiện thêm tư duy và cảm xúc đặc thù của nhà thơ nữ hiếm hoi này.
Hồi niệm về cội nguồn, nòi giống, bà không những vinh danh truyền thuyết đã có, mà niềm hãnh diện, tự hào dân tộc còn hé lộ qua tâm tư trăn trở, lao đao về cội rễ bám sâu đất Tổ lâu đời, lại chông chênh thế đứng, hưng vong theo chiều dài lịch sử, như một định mệnh đang ám ảnh vật vờ những cuộc rẽ chia, lưu lạc:
Nước có tích xưa một trăm trứng
            Cha là Rồng, mẹ vốn là Tiên
            Mẹ đi lên núi, cha về biển
            con đã trăm con, rẽ trăm miền....
Phiêu bạt giữa vòng quay nghiệt ngã thời đại, con Rồng cháu Tiên đang thực sự lạc rẽ trăm miền trên hành tinh, khắp mọi miền xa lạ, và cùng thấm thía nỗi đau chung đời kiếp ngóng trông:
            Gửi hồn theo sách về Non Nước
            Cát bụi thân mình lại xót xa
            Ôi, hỡi hồn thiêng sông núi hỡi
            Ngày nao ta trở lại quê nhà?
                        (Gửi Hồn Theo Sách)
Đề cập đến nhiễu nhương ly loạn, nguyên nhân cũng như hậu quả, bà cảm nhận chiến cuộc – quy luật diễn biến gần như tất yếu trong dòng tranh chấp ý thức hệ của con người giữa hai bờ chủ nghĩa – trong đó có vai trò người phụ nữ nhạy cảm, được khẳng định với ngôn ngữ thơ như lời tự thú:
                        Tôi dang hai cánh tay đàn bà
                        Ôm lấy cuộc đời đầy lửa đạn
Tôi đã sống như loài bò sát
Với đôi ngươi và những mấu chân...
...........
Tôi đã đổ một trùng dương lệ ngọc
Tôi vốn nòi khóc mướn thương vay...
            (Chân Dung Tự Họa)
“Khóc mướn thương vay” là thái độ của thức giả xưa nay, không ngăn được lòng mình đau niềm đau chung của thiên hạ, chứ nào phải chuyện vớ vẩn “là thi sĩ nghĩa là ru với gió” như ai kia! Cho nên, dẫu “nhi nữ thường tình”, kẻ sĩ cũng tự vẽ chân dung mình với hai dòng nước mắt tuôn rơi trước biển đời sóng gió, trong mệnh nước nổi trôi. Rồi khi cuộc chơi giữa thiện và ác, giữa sáng và tối, giữa chính nghĩa và phi nghĩa...kết thúc, kẻ sĩ tự dằn vặt mình với tội lỗi tự mình nhận lấy:
            Tôi dã góp hai bàn tay tội lỗi
            Vào cuộc đời tôi thệ thốt yêu đương
            Tôi, đàn bà, với trăm nỗi xót thương
            Đã tham dự chiến trường không dám hỏi...
                                     (Chân Dung Tự Họa)
Không đủ uy quyền, yếu tố quyết định số phận mình, không giữ trọn lời thề thốt thiêng liêng cùng sông núi, Vi Khuê biểu hiện lời thú tội thành khẩn của một bản thể công dân, ý thức trách nhiệm, đóng góp phục vụ với đôi bàn tay năng động cho tới tận phút cuối cùng ngã ngũ.
Phong cách ngôn ngữ thầm kín, bí ẩn mà tỏa rạng sức sống của con người nặng tình quê hương, tiềm tàng xao xuyến theo triều động thăng trầm vận nước. Vi Khuê, xoáy vào chiều sâu thẳm của Tạo Hóa với trằn trọc, hoài nghi luận điểm có hay không có Thượng đế ”, bậc sáng tạo và quyết định số phận muôn loài trần thế, từng in đậm tâm khảm và niềm tin con người. Vi Khuê so chiếu cuộc đời hiện thực, phấn đấu, vật lộn, ngược xuôi với biết bao truân chuyên, bất trắc. Tác giả đã nghĩ về “Trời” như  khi bất chợt đối diện với “người hàng xóm rất gần nhưng cũng rất xa xôi”: “Bà hàng xóm Mỹ”! Hóa ra “Bà cũng như tôi”, cùng chia sẻ một ý niệm về Trời, trong thân phận sức người có hạn:
            À, tôi đang nghĩ có trời chăng?
            Bà trả lời tôi với, được không?
            Trong đêm le lói, đèn leo lét
            Lấp lánh đôi ngươi, ngó lạ lùng
                         
            Có Trời, ồ có, chớ sao không?
Trời ở đôi ngươi ngó, lạ lùng
Trời đẩy đưa tôi từ gác nhỏ
Đến cùng người khác giữa đêm đông...
                                (Bà Hàng Xóm Mỹ)
Ngoài luận lý nhân sinh, đức tin tôn giáo, thơ Vi Khuê còn phác họa những bức tranh cổ độ bằng những gam màu pha trộn khéo tay, nổi bật hình tượng quá khứ “Qua Đèo Nhớ Trấn”. Trong khoảnh khắc bàng bạc thiên nhiên cùng nỗi ai hoài của Bà Huyện Thanh Quan “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”, cảnh vật lắng đọng vô âm, im lìm hoang vắng:
            Qua đèo nay nhớ trấn xưa
            Hoang vu đồi hạ, đôi bờ cỏ may
Trong sâu thẳm tĩnh lặng không gian và thời gian, cồn, bến, cỏ dại, lau thưa, đang chờ đợi. Chờ đợi biến hóa, vươn dâng, hồi sinh, đồng thời là mơ ước của tác giả trong hiện thực:
            Cồn hoang dã, bến lau thưa
            Trơ thân cỏ dại nằm chờ nước sông
            (Hoang Vu)
Đọc Vi Khuê, ghi nhận tiêu biểu rõ nét của tư duy và cảm xúc. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giọng điệu sang cả, thanh cao, trang nhã, xứng đáng một dáng đứng đường bệ trên thi văn đàn hải ngoại 


NHỚ NGUYỄN DU
TRÊN ĐƯỜNG
QUA QUỶ MÔN QUAN

Ngồi đây đọc sách ngàn trang cũ
ngoài đó lao xao vẫn chiến trường
tuyết bão vào song, mưa cứ đổ
tưởng người xưa dưới Quỷ Môn quan

Đường qua cửa quỷ, mây vần vũ
ngàn dặm về Nam nhớ bóng ai
gió xác cây xao cuồng vó ngựa
đầu non trăng rụng, vượn than dài …

Ngán ngẩm mặt người không muốn ngó
ấm lòng đã có rượu vài chung
tuổi chưa già cớ sao liều lĩnh
chỉ ngắm nhà kia ngủ gác non?

Tương quan bè bạn là không có
thì bận lòng chi chuyện đón đưa
thôi, cảm ơn đời thêm chút nữa
cho ta quán trọ dưới trời mưa.

vi khuê
Nguyễn Du, qua bài Quỷ Môn Trung Đạo
        

GỞI HỒN THEO SÁCH
                       
Gởi hồn theo sách về Non Nước
Nước mấy ngàn năm nước gấm hoa
Nước thơm trang sử thơm tình đất
Nước vẫn ngàn năm nước Việt ta

Nước có tích xưa một trăm trứng
Cha là rồng mẹ vốn là tiên
Mẹ đi lên núi cha về biển
Con đã trăm con rẽ trăm miền

Nước có con thuyền trôi ngược sóng
Có người tuốt kiếm dưới trăng ca
Câu thơ hào khí thơ hùng tráng
“Thế sự du du nại lão hà” (*)

Nước có non cao chín ngọn Hồng
Sông Hương Núi Ngự mấy hưng vong
Phù sa bãi luợn Đồng Nai rợp
Bóng rặng dừa xanh ngát Cửu Long

Nước có Vua Bà xưa cưỡi voi
Có cô công chúa lấy dân chài
Có văn chương mở ngàn pho sách
Có Bạch Đằng Giang khiếp vía ai

Nước xưa có Trạng ngồi ghi chép
Sấm truyền nghiêm trọng xuống lòng dân
Một đời gối chiếc hai dòng lệ
Thù ghét can qua, giận lũ cuồng
           
Nước có sao đông có sao tây
Nước có kỳ hoa dị thảo đầy
Nhưng nước ngàn năm còn nước khổ
Lịch sử cuồng trong trận gió quay!

Gởi hồn theo sách về Non Nước
Cát bụi thân mình lại xót xa
Ôi ! hỡi hồn thiêng sông núi hỡi
Ngày nao ta trở lại quê nhà ?
             (*) Thơ Đặng Dung


****************
CUNG DIỄM
                                 
Cung Diễm là bút hiệu của Hoàng Kim Dũng. Quê ở Quảng Nam, vùng đất địa linh nhân kiệt. Ông làm thơ từ những năm đầu thập niên 50 với những đề tài bài Phong, đả Thực. Nhưng mãi đến những năm cuối của thập niên 60, thơ của ông mới đều đều xuất hiện trên báo chí. Trước năm 1975 là biên tập viên của báo Trường Sơn ( Quảng Nam Đà Nẵng) khi ông tùng sự trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Từng cộng tác hoặc là biên tập viên của các nhật báo và tạp chí ở Sài Gòn như:  Phụ Nữ Diễn Đàn, Thời Nay, Tin Vịt; Dân Luận, Hòa Bình... Khi làm thơ trào phúng, ông ký các bút hiệu được nhiều người biết đến: Tú Lắc, Nghịch Nhĩ, Lộng Giả.
Ông từng cộng tác mục thơ “Chém Treo Ngành” trên nhật báo Hòa Bình dưới bút danh Nghịch Nhĩ . Cũng với bút danh này, ông phụ trách mục “Thơ Ngông” trên tờ Dân Luận. Trên tờ Tin Vịt với bút danh Lộng Giả trong mục “ Thơ Vịt Tiềm”; và trên tờ nguyệt san Thời Nay dưới tiêu đề “Thơ Lên Ruột” với những bài châm biếm thời sự. Cung Diễm sở trường với các mục thơ châm biếm, trào lộng. Tác giả coi đó như một liều “thuốc đắng” để “dã tật”, để đánh đổ những thói hư, nết xấu của con người trong xã hội, hầu xây dựng một cuộc sống lành mạnh, hiền hòa.
Cung Diễm cùng có quan điểm chung với mọi người: Văn Thơ là phương tiện hữu hiệu nhất để truyền bá đến đại chúng những tư tưởng mới, những điều hay lẽ phải, để con người theo đó mà tu thân, xử thế... 
Với thơ trào phúng, Tú Lắc, hay Nghịch Nhĩ, hay Lộng Giả  đều tỏ ra là một cây bút cừ khôi, như mũi tên bắn thẳng vào những hành vi trái tai gai mắt, thiếu đạo đức, phi nghĩa; chọc thẳng vào những kẻ tham nhũng, lộng hành, đục khoét công quỹ, dù ở vào bất cứ thời buổi nào:                     

            “ Loắt choắt nhưng ông lại đứng đầu
              Mười hai con giáp phải chơi đâu
              Niêu cơm vớ được no phình bụng
              Tĩn nếp rơi vào sướng vểnh râu
              Nhọn mõm vốn hay tài đục khoét
              Thính tai nên mới giỏi bôn đào
              Đeo chuông tính chuyện trời toan vá
              Khốn nỗi mèo kia lớn tiếng ngao.”
                                        ( Ông Tí)

Và một bài khác nói về việc bầu bán:
            “ Kết quả cho hay cụ đắc rồi
             Mở cờ trong bụng khoái thì thôi
             Ơn vua, trăm xấp tha hồ móc
             Lộc nước, ngàn phương mặc sức moi
             Mẹ đĩ dựa hơi chồng tác quái
             Cu con cậy thế bố thi oai
             Thay dân ông có làm nên việc?
             Cái đó thì xin để hạ hồi”
                               ( Đắc Cử)

Khoảng 10 năm trở lại đây, trong các sinh hoạt của giới văn thơ ở miền bắc California, đọc giả hải ngoại thường vẫn được đọc những bài thơ trào phúng, của tác giả có bút danh Tú Lắc. 
Bên cạnh sở trường thơ trào lộng, Cung Diễm còn là một nhà thơ rất trữ tình. Thơ Cung Diễm niêm luật phân minh, vần điệu hài hòa nhạc tính. Chữ dùng cổ kính nhưng đầy chất thơ và trẻ trung, gợi cảm.   
                       
Ta gửi cho em mấy đóa Đường
Đóa hờn, đóa giận, đóa yêu thương
Đóa tương tư, thoảng hương nhung nhớ
Đóa hận sầu phô sắc chán chường
Đóa đón em về ngôi ái hậu
Đóa buồn ta lỡ mộng quân vương
Sắc hương ngàn đóa dâng em cả
Còn lại riêng ta đóa đoạn trường ...

Với nước non, thế sự ông mang tâm trạng của một kẻ sa cơ lỡ thời, tâm trạng của kẻ sĩ, chí không thành danh không toại, hổ thẹn với tiền nhân, mượn tích người xưa mà than thở phận mình:
                       
Tấc son trải khắp mây trời Việt
Mộng lớn tàn theo vận nước Ngô
Khanh tướng trót vương vòng hệ lụy
Công hầu, chợt tỉnh giấc hư vô
                 ( Vịnh Phạm Lãi)

Trong bài “Đọc Sầu Ở lại”, Cung Diễm đã mượn tâm sự của cố thi sĩ Tạ Ký để gởi gắm nỗi lòng của kẻ sĩ thời nay. Đây là một trong những bài thơ hay của tác giả (xin xem phần thơ trích). Một bài khác, chỉ với một khổ thơ tứ tuyệt, Cung Diễm đã nói lên được tất cả nỗi lòng băn khoăn thao thức của một lưu dân trước nghĩa vụ đối với quê hương, với đại cuộc:

Chẳng biết tìm đâu ngọn cỏ Bồng
Và cành dâu nữa để làm cung
Cho nên món nợ Tang Bồng đó
Cứ hẹn dần dà với núi sông.
                                               ( nợ )
Kiếp sống lưu vong, nỗi lòng tư cố, với người thơ lại càng đòi đoạn, mượn men say để u hoài dĩ vãng:
                                     
            Ôi thôi, nghĩ hổ danh tùng bách
            Đất lạ đành cam phận sắn bìm
            Nào thuở voi thiêng gầm phá Tống!
            Còn đâu dậy đất trống bình Chiêm?
            Máu xương oanh liệt ngời trang sử
            Suy thịnh, ôi buồn chuyện cổ kim!
                                                (Lại say)

Một số thân hữu cho rằng Cung Diễm là một người thơ khó tính, khi làm thơ và đọc thơ, ông rất chú trọng đến niêm luật và âm điệu. Ông đã từng nói: “Nếu ai không biết niêm luật mà làm thơ, thì đó là người liều mạng.” 
Với văn thơ thì hơi khó tính, nhưng đời thường lại rất hòa ái trong giao tiếp, xuề xòa vui đùa cùng anh em bạn hữu, tham gia nhiệt tình trong các sinh hoạt, trổ tài ca hát, ngâm vịnh, nhất là môn hát bộ Quảng Nam.
Văn hữu Ngọc Huỳnh nhận định về thơ Cung Diễm đã “ví von”: Hoàng Kim Dũng như một ông thầy đông y, với những vị “thuốc đắng”, như càn khương, phụ tử, hoàng liên... Mong chữa lành vài căn bệnh của xã hội, qua những bài thơ trào phúng, mang bút hiệu: Nghịch Nhĩ, Lộng Giả, Tú Lắc. Nhưng lương y Hoàng Kim Dũng, lại cũng bốc những thang thuốc bổ dưỡng tâm can, như sâm-nhung-thục địa cam thảo, mật ong, khiến mọi người được di dưỡng tinh thần, qua những vần thơ ngọt ngào, mang âm hưởng cổ thi với bút danh Cung Diễm. Sống và làm thơ như vậy, kể cũng là một điểm son trong đời.

ĐỌC VẦN THƠ CŨ

           Để tưởng nhớ Tạ Ký

Bâng khuâng đọc lại vần thơ cũ
Ai gửi sầu theo với nước mây  
Nước đi ra biển, mây về núi
Sầu chẳng theo, “Sầu Ở Lại”đây(*)
Cuộc rượu ngày xưa bên chợ Đũi
Vui buồn dăm đứa gật gù say
Mà say, có lẽ là say thật
Nên để thời cơ vuột khỏi tay
Chung đỉnh đã không nên sự nghiệp
Suy tư hằn mấy nếp cau mày
Gió mưa bốn hướng mờ sông núi
Cánh hộc hồng không rộng lối bay
Ngọn bút đã không xoay vận hội
Văn chương thẹn với núi sông này
Đỏ đen vốn đã người trong cuộc
Canh bạc đời thua nhẵn cả tay
Thơ lại đành ngâm câu ẩm hận
Mềm môi men rượu lại thêm cay!
Đảo điên trong cõi trăm năm ấy
Chưa dễ gì ai đã biết ai
Sùi sụt ngoài hiên mưa nhỏ lệ
Vắn dài, ta cũng khóc ai đây!

cung diễm
1989
(*) Thơ Tạ Ký


NIỀM RIÊNG MỘT NỖI

Muốn nỗi buồn vơi theo cốc rượu
Đêm tàn chuông vọng tiếng công phu
Ôi chao, chóng thật là năm tháng
Hờ hững trôi đi chẳng tạ từ
Không gửi sầu theo mây tám hướng
Ôm ghì cho nặng mối ưu tư!
Trăm năm một cõi đời mưa gió
Dâu bể đau lòng bút Tố Như
Lê trắng chưa phai màu hạ trắng
Cúc vàng đã lại phả hơi thu
Tiếc không giữ được vầng trăng mộng
Để khuất vào sương khói mịt mù
Tâm sự không vơi theo cốc rượu
Niềm riêng đành gửi bướm Trang Chu
Ngổn ngang trăm mối ta cùng bóng
Đừng để yêu thương hóa hận thù
Hãy đốt trầm lên xông phím lạnh
So dây mà gãy bản tương tư
Đàn ơi, rỉ máu năm đầu ngón
Tan nát lòng theo khúc Sở từ!

cung diễm
San Jose, 11-2001
                              

S A Y

Bày rượu, rủ dăm ba đứa bạn
Tạc thù chén chú chén anh chơi
Thơ xoàng ngâm toáng đôi câu cóc
Rượu nhạt buồn vui gẫm chuyện đời
Tay trắng nghĩ thương phường bạch diện
Phù vân lại trắng áng mây trôi
Ôi thôi, tất cả đều hư ảo
Thấy cảnh bon chen bỗng nực cưới
Tri kỷ, dăm ba thằng nối khố
 Tửu phùng, hãy cạn nhé, say thôi
Uống cho đất lệch trời nghiêng ngả
Thua được cầm như một cuộc chơi
Bạn hữu ngày xưa đôi đứa vắng
Chán đời chúng nó bỏ đi rồi
Đi đâu và biết về đâu nhỉ
Địa ngục? Thiên đàng? Cũng thế  thôi!
Bướng bỉnh dăm chàng trai xứ Quảng
Gan lì mà lại khóc, eo ôi!
Rượu ơi, không thể tìm quên được
Rượu cạn niềm đau vẫn chẳng vơi
Tuy chẳng sa trường nhưng “tuý ngọa”
Tỉnh ra chợt hỏi ‘’kỷ nhân hồi ’’ ?
‘’Cổ lai chinh chiến”, ôi chinh chiến
Máu đỏ ngầu sông, xương trắng phơi
Khanh tướng còn mê mùi tục lụy
Thì xương còn đổ máu còn rơi
Bạc đen trong cõi đời ô trọc
Tri kỷ là ai dễ mấy người?
Trót để sầu tan trong chén rượu
Nhắp men sầu đắng tái tê môi
Đục trong mặc nước dòng Thương lãng
Vất cái phù du lại cuộc đời
Túi vẫn còn thơ bầu vẫn rượu
Thì say thì tỉnh gió trăng ơi!

cung diễm
San Jose, một chiều say

******************
HÀ TRUNG YÊN

Độc giả của Sài Gòn xưa đã bắt gặp một số bài thơ trên các tạp chí, tập san, tuần báo phát hành tại thủ đô miền Nam trước 1975 dưới những bút hiệu Ngọc Dạ Lý Hương, Thanh Thịnh, Hà Trung Yên, Lê Nhật Thăng về đủ thể loại, nội dung tình yêu, xã hội, thời thế... Mãi lâu sau người ta mới nhận rõ những bút hiệu ấy thuộc cùng một tác giả, tên thật là Nguyễn Ngọc Châu, một sĩ quan trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Ông sinh năm 1934 tại tỉnh lỵ Phúc Yên (miền Bắc). Thuở thiếu thời học ở tỉnh nhà, sau lên Hà Nội tiếp tục sách đèn cho tới khi được gọi động viên vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Khóa V “Vì Dân”, giữa năm 1954.
Cùng chung số phận với sinh mệnh chính trị miền Nam, sau tháng Tư 1975, ông bị tập trung vào trại tù cải tạo nhiều năm. Sau khi tới được vùng trời Tự do, sống đời tỵ nạn, ông tiếp tục cầm bút trở lại.

Nguyên Chủ bút báo Rạng Đông, tiểu bang Georgia và Tờ Việt Nam ở Orlando. Sự nghiệp văn chương của ông đến nay đã phản ánh qua năm thi phẩm:  Hồi Tưởng 1967  Những Khối Vuông Tâm Tình 1988  Niềm Xanh 1992  Hương Xa 1993  Âm Vang Thơ Nhạc 1994.
Ngoài ra, giới yêu thơ còn đọc được nhiều thơ ông trên các tuyển tập và báo chí hải ngoại, mang tâm tư, dáng vẻ thời đại của kẻ lưu vong: trầm tư, tiếc hận số kiếp một quân cờ trong ván bài quốc tế, cuộc đọ sức bằng ý thức hệ giữa hai đối thủ, để rồi kết cục được thua: “Ẩn ước vu vơ cười thế sự. Uổng chăng số kiếp một quân cờ”. Kết cục đó trở thành uẩn khúc, trăn trở, hoài nghi.
Giữa không gian hiện thực, và tâm hồn thơ giữa mù sương luân lạc, tác giả đã trở về với chính mình bên nỗi hao mòn hiu hắt, ám ảnh khi ngọn cờ lịch sử dân tộc bị cưỡng đoạt bởi bạo lực vô thần, phi nhân, tàn bạo, hoang tưởng:
            Phất phơ cờ lịch sử
            Mênh mông miền lữ thứ
            Ngẫm thân cuộc sống mòn
            Tội cho nghìn nét chữ
                (Giấc Ngủ)
Hà Trung Yên mang nặng cảm hoài. Tâm tư ấy được giải bày trong từng khổ thơ của ông. Tác giả gửi gắm tâm sự của con người cô đơn, lữ thứ giữa nơi chốn thiếu hẳn hình tượng quê hương, những gắn bó máu thịt. Trước một chuyển màu mưa nắng cũng đủ khơi gợi tâm trạng để bật thành tiếng thơ của bơ vơ u-ẩn:
            Ừ nhỉ, u buồn mưa viễn phương
            Lối nào gom gió trắng mây sương
            Nghiêng chào năm cũ mờ trăng lạnh
            Chợt cảm bơ vơ ở giữa đường.
                 (Đi Trong Đêm)
Màu sắc ảm đạm trùm phủ lên không gian giữa dòng thời gian lê thê trôi chảy, kiếp nhân sinh vốn là kẻ trọ, nên không gian, nơi chốn chỉ mang ý nghĩa “Cõi Tạm”của triết lý Phật giáo mà thôi. Thời gian - khoảng hiện hữu của con người trên cõi thế, đáng lẽ phải được tranh thủ, kịp thời hoàn thành ước vọng và bổn phận làm người. Với Hà Trung Yên, tất cả là hư vô, là quá khứ, chỉ còn một hiện tại đáng nhớ thương về:
            Không phải những ngày tôi sống
            Để rồi cộng thành thời gian
            Bởi vì bao nhiêu năm tháng
            Cũng là vô nghĩa bay tan

            Tôi hỏi thầm qua cuốn lịch
            Nỗi niềm thế sự si mê
            Bước chân hướng về trầm tích
            Lạc loài thương một phương quê...
                    (Vô Đề)
Không ai trách cứ một nhà thơ bi quan, sầu lụy về cuộc sống và thời đại mình. Thơ là dòng cảm xúc dào dạt của thi nhân. Thơ đủ quyền năng biểu cảm, cả đến thú nhận chân thành bản ngã, “cái Ta” yếu đuối của chính mình.  Hà Trung Yên ước vọng hướng tới tương lai, nhưng tương lai vờn lên một độ màu hắc ín, đậm đặc màu cà phê mà ông thưởng thức mỗi ngày ở đời thường. Từ đó thơ ông càng nặng cảm hoài, bức xúc về quê hương, thân phận, chiến chinh như một dấu ấn khắc đậm vào tận xương tủy, khó xóa mờ:

            Sắc đen ơi chảy vào xương tủy
            Độ màu hắc ín vẽ tương lai
            Gác chân khẽ thở buồn vun đọng
            Vỡ tách nghe vang ý cảm hoài
                     (Uống Cà Phê)
Trên bước đường lưu lạc, Hà Trung Yên mang theo nỗi cảm hoài chất ngất trước cuộc bể dâu thời đại mà ông là một trong
hàng kẻ sĩ sa cơ theo vận nước. Con người và cuộc sống sẽ còn
ý nghĩa gì khi nước mất nhà tan? Cái còn lại theo ông là “tiết nghĩa nhân văn”. Cái còn lại đó đã toát ra trong tiếng thơ trầm nghẹn u-uất, trong khúc hồ trường rưng rưng hai hàng lệ tha hương qua bài Vô Biên của tác giả:
            Chúng ta ngồi quanh đây
            Những cánh chim Hồng chim Lạc
            Sẻ chia nỗi sầu hoài man mác
            Đã ngậm ngùi từ thuở Văn Lang
Trên dọc dài lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nỗi ngậm ngùi lặp lại ở khúc ngoặt 30-4-1975 khi dân tộc sa vào vòng đại họa của chủ nghĩa tam vô, đẩy hàng triệu người dân sống đời tha phương lưu lạc:
            Hôm nào xuân hiện trên môi
            Chén sinh ly ấy mộng trôi cơ đồ
đến nay đã:
            Hai mươi lăm năm buông súng
            Hai trăm tám chục mùa trăng xa quê.
Vô Biên là một trong những bài thơ tự sự của Hà Trung Yên. Cũng như bài Ngựa Vực Hồn Thơ của Đông Anh, Vô Biên là cảm hứng cho những bài thơ họa của Hà Thượng Nhân, Huệ Thu, Thái Quốc Mưu, những bài thơ họa rất “tâm đắc” giữa những người đồng điệu.
Là một nhà thơ kỳ cựu đã thành danh, thơ Hà Trung Yên còn đậm nét cổ điển thi từ, dù trong đó đây, ông đã muốn bày tỏ một cách thế sáng tạo chữ nghĩa... Sự thể nghiệm cuộc chơi còn phải cần đến yếu tố thời gian với thiện ý, nổ lực tìm kiếm và khám phá.
Tạo một thế giới thơ riêng là ước vọng xưa nay của nhiều thi sĩ, trong đó khái niệm và kỹ thuật làm mới ngôn ngữ là một điều kiện. Với Hà Trung Yên, trên dặm đường đang đi tới, kiếm tìm và thu nhập chất liệu mới cho Thơ vẫn là niềm đam mê sôi nổi của ông.

 
VÔ BIÊN

Chúng ta ngồi quanh đây
Những cánh chim Hồng, chim Lạc
Sẻ chia nỗi sầu hoài man mác
Đã ngậm ngùi từ thủa Văn Lang
Hơn bốn nghìn năm tâm sự úa vàng
Buồn nhân thế bàng hoàng trong lá rụng
Hai Mươi lăm năm buông súng
Hai trăm tám chục mùa trăng xa quê

Nhìn nhau tủi ánh nguyệt thề
Ngôi sao phương cũ lạnh tê tái lòng
Ngậm ngùi đôi mắt thương mong
Ôi ly rượu đắng còn hong nỗi buồn
Đây màu rượu hiu hắt bóng hoàng hôn
Trầm mạch máu chảy trong hồn lưu lạc

Ta soi đời vào ly thấy men nồng đổi khác
Giọt lệ nào nhuốm bạc chút yêu tin?
Song vẫn ngây thơ qua cặp mắt nhìn
Hỡi sắc trắng của bao miền đất lạ
Chỉ gặp mưa ròng tơi bời hoa lá
Xin cùng đốt lửa đêm nay
Để khói thơm ngần biêng biếc vờn bay

Nào ta nâng chén vui say
Hội phong vân mất, tình nầy còn thôi
Hôm nào xuân hiện trên môi
Chén ly sinh ấy mộng trôi cơ đồ
Ngày mai bão dậy sóng xô
Dạ quang lại sáng bên hồ xa xưa

Xin rót cho dài cơn mưa
Hãy hát cho mờ dặm cỏ
Tôi sẽ ngâm vang cho dạt dào mưa gió
Người uống tràn cho đỏ thắm vần thơ
Nghệ nhân ơi hôn nhẹ nguồn mơ...
Này Trúc Diệp Thanh, Bồ Đào, Mai Quế Lộ
Kia Ngũ Gia Bì, Biên Tái Tửu xanh vùng tri ngộ
Đây trên quầy bình Thiệu Hưng, Nữ Nhi Hồng
Chợt vẫy mình đang trôi nổi giữa dòng sông
Không bờ bến, quên nặng nề thân xác
Hãy cùng nhau nhắp Hennessy, Cognac
Hoặc Martell, Gin, Rhum, Whisky

Còn Champagne và chai lớn Brandy
Ta phơi phới bay cùng trời, cuối đất
Thuyền có khẳm nhưng trùng dương rất chật
Rượu hừng rồi chếnh choáng các ngươi ơi!
Đi về đâu xa vắng những môi cười?
Ô hay khóc, nhớ gươm thần đã rỉ
Mời anh chị giơ cao bầu thanh khí

Uống cạn rồi xin đập vỡ chén ly bôi
Cho lòng ta xung động tiếng bồi hồi
Những âm nhọn càng làm ta choáng váng
Này thời gian có ngọt ngào năm tháng?
Thành sầu chừng phiêu lãng
Bầy chim uyên lơ đãng vân du
Đi đầu xuân, về cuối thu
Gào bên sóng rượu, sương mù hơi men
Hóc Môn, Bà Điểm thân quen
Ấm tình xương thịt còn chen nho hồng
Ta đi tìm nhánh xương rồng
Cất nồi ngô, nếp thêm nồng nàn hơi
Các bạn của tôi ơi!
Ngoài xa vẫn vọng bao lời Việt Nam

Nơi đây xứ sở ngàn quan ải
Mỗi trái tim thành một cái am
Mỗi thiết tha không hề trở lại
Chén rượu thanh bình đắng vị cam
Chao ôi, cố quốc muôn trùng sao khổ mãi!

Khi ra đi vườn xưa sầu hải ngoại
Lệ long lanh, ngần ngại đôi bờ
Nào biết đâu định mệnh, huyền cơ
Thơ ôi nghiêng rữa phút giờ
Rượu đời chưa cạn, ngồi chờ sao Mai

Mênh mang một ngả linh đài
Trải lòng ụa máu, vẫn nài bạn vô
Rượu đang gọi dưới nấm mồ
Luyến lưu thi sĩ tửu đồ buồn thay!
Ừ, thì ta say, ta say
Uống thêm, cứ uống chén đầy, chén vơi
Lưu Linh, Nguyễn Bính một thời
Tản Đà, Lý Bạch ấy người thành danh
Đứng lên tinh thể tan tành
Lung linh trong bước tửu hành vô biên.

 
******************
HOA VĂN

Cuộc chiến dài hai thập kỷ trên quê hương đã sản sinh nhiều nhà thơ khoác áo lính. Người lính vừa đánh giặc vừa làm thơ, phản ảnh tâm tình, cuộc sống quân ngũ, lý tưởng tôn thờ và nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ từng tấc đất miền Nam trước ý đồ thôn tính từ miền Bắc, được ủy nhiệm bởi hệ thống “quốc tế vô sản”, tham vọng bá quyền.
Người lính miền Nam hiện diện khắp nơi trên giới tuyến, biên cương, hải đảo cho đến thị thành phồn phú, cũng là nhà thơ miền Nam với sức sáng tạo thi ca đa diện, phóng khoáng, riêng chung...
Tác giả Anh Hoa trong các thập niên 60 - 70 ở miền Nam ngày trước, là một trong số nhiều tác giả nhà thơ lính miền Nam đã gửi gắm cảm hứng chính mình vào dòng thơ chinh chiến ấy trong ba thi phẩm đã ấn hành:
 Đường Em Hoa Nở 1964  Thơ Anh Hoa 1965  Thơ Lục Bát 1966

Anh Hoa ngày trước chính là nhà thơ Hoa Văn ngày nay ở hải ngoại, với một thi phẩm trình làng trong tháng 7-2002: THƠ VÀ THỜI GIAN do Thăng Long xuất bản.
Trong dòng thơ Anh Hoa ngày trước và cả Hoa Văn ngày nay, tình tự dân tộc chan hòa, soi sáng thế hệ trẻ dấn thân nhập cuộc, thường trực đối diện hiểm nguy, mất còn trong mịt mù khói lửa, đạn bom. Càng hăng say chiến đấu, thơ lính càng nổi bật lãng mạn tính, nạm vàng thành tựu chiến công, trong đó lại không hề thiếu hình bóng giai nhân chinh phụ. Khoảng cách hậu phương tiền tuyến, tựa hồ hai đầu sông Tương nghìn trùng vò võ, nhớ thương tưởng vọng. Máu xương đổ xuống cho chiến trận, những tưởng sẽ đón nhận vinh quang, trớ trêu thay, cơn lốc thời đại đã xô cuốn người lính miền Nam nửa đường gánh chịu tai ương hệ lụy:
            Tay ôm vững súng, đành buông súng
            Đồng đội tang thương cuộc đổi đời.                 
Trải qua cuộc lưu đày lịch sử cùng khắp cái gọi là “trại học tập cải tạo”, khốn khổ khôn lường, biên độ sống chết mong manh như sợi chỉ, người chiến sĩ miền Nam mà Hoa Văn đại biểu, vẫn vững niềm tin tồn tại, để có một ngày lồng lộng nắng vàng, ngẩng bước đi dưới bầu trời tự do, tái dựng phần đời còn lại. Trên miền đất hứa chạm mặt thực tại, hít thở không khí trong lành, môi trường sống thuận lợi nhiều góc cạnh, người thơ vẫn không thể giải tỏa những bức xúc thân phận, ám ảnh quá khứ, bởi “thấy cả chính mình tên mất nước” và khẳng định ê chề : “Tôi buồn tôi, một kẻ lưu vong”.
Định cư miền Đông Bắc Mỹ, hai mùa tuyết phủ mưa vây, nỗi cô đơn ngập hồn lưu lạc, để đủ gợi tên nỗi buồn dai dẳng, ray rứt.
            Chiều mưa Đông Bắc ôi buồn quá
            Nhớ bạn bè xưa đang lạc dần
            Kẻ mất người còn nơi xứ lạ
            Chôn vùi mộng ước với thời gian
            (Chiều mưa Đông Bắc)
không chỉ xót thương bạn bè xưa nơi xứ lạ, mộng ước cũng đã vùi chôn sâu đáy thời gian, Hoa Văn nhìn lui, hồi tưởng bóng dáng hiên ngang, hào hùng một thuở:
                        Và nhớ thuở nào mang súng trận
                        Đêm đêm khói lửa mịt mù bay.

Dải đất quê hương, định mệnh an bài trên hành lang địa lý Đông Nam Á, tọa độ ngã ba đường tranh chấp chiến lược, và ý thức hệ đối lập giữa khối Tự Do và Độc Tài, giữa Dân chủ và Đảng trị, bối cảnh chiến tranh cùng thiên tai địa họa, đất mẹ đã nghèo nàn càng kiệt quệ, con người càng khốn đọa, bần cùng.
                        Quê tôi nghèo lắm, ôi nghèo lắm
                        Lũ lụt từng năm đói bốn mùa.
                        Con trẻ tìm ăn quanh hố rác
Mẹ già còm cõi thức canh mưa
            (quê hương còn đó nỗi đau này)

Người mẹ Việt Nam, chủ đề phong phú của thi ca cổ điển và hiện đại đã được minh họa bằng những mảnh màu đậm nhạt. Trong mỗi đời nhà thơ, ít nhất cũng có một bài, hoặc một đoạn, một khổ thơ vinh danh Mẹ. Bao nhiêu huyền thoại, truyền thuyết về người Mẹ mang nặng đẻ đau, chắt chiu tần tảo nuôi con khi chồng vắng mặt. Ơn dưỡng dục, nghĩa cù lao chính là bài học đạo đức cơ bản, những người con chưa đủ điều kiện, cơ hội báo đáp lòng hiếu thảo thường tỏ bày tâm trạng qua thơ với nỗi niềm thương hận. Hoa Văn rời xa mẹ trong bước ngoặt chiến tranh. Đất nước chia hai miền Nam Bắc hai thể chếä chính trị khác biệt.
                        Hy vọng mai này nuôi được mẹ
                        Nào ngờ đất nước lại chia đôi.
                        Mẹ tôi bóng xế chiều phương Bắc
                        Tôi xuống miền Nam đổi cuộc đời.

Tâm cảnh thơ Hoa Văn biểu hiện rõ nét. Thơ thật đẹp mà cũng thật buồn. Tiếng vọng từ những đoạn thơ, âm ba lời tự sự, tự thán, là tiếng thở dài não nuột, sắt se. Tác giả mang nặng nhân sinh quan bi quan về cuộc đời, mà bao đời, bao nhiêu người đã cùng bộc bạch.
                        Đời người chẳng gió thì sương
                        Cái vui về một, cái buồn muôn thu.
                        (nhân sinh)

Thi sĩ xưa nay là hiện thân của đau khổ. Nỗi buồn, một chất liệu ắt có trong nguồn sáng tạo thi ca. Với Hoa Văn, nỗi buồn chất chứa, “càng lắc càng đầy” do động lực tình yêu sông núi, tình Mẹ và thân phận của chính mình – người trong cuộc. Khi những bài thơ hình thành, kết hợp hài hòa ngôn ngữ và thanh âm, tạo được một khúc ngâm buồn, cũng là lúc người thơ đã giải tỏa tâm trạng ẩn ức, rời rã... thơ chắp cánh vút lên cõi trời ảo diệu.
Nhận định chung này cũng là cái riêng của Hoa Văn, tên thật là Ngô Văn Hòa, sinh quán tại Phú Thọ, miền Bắc. Xuất thân từ trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt (khóa 4 phụ SQ Trừ Bị Thủ Đức). Trước năm 1975 ba lần du học tại Hoa Kỳ. Tù Cải tạo, định cư tại Boston từ năm 1993 theo diện HO. 

CHIỀU MƯA ĐÔNG BẮC

Chiều mưa Đông Bắc ôi buồn quá
Nhớ bạn bè xưa đang lạc dần
Kẻ mất người còn nơi xứ lạ
Chôn vùi mộng ước với thời gian

Chiều mưa Đông Bắc ôi buồn quá
Mấy chục năm qua vẫn lạc loài
Tổ quốc vẫn còn phiêu dạt mãi
Lòng người thì vẫn giọt mưa phai

Chiều mưa Đông Bắc ôi buồn quá
Túi tuổi đầy lên theo tháng năm
Tình cũng vôi dần theo cảm thức
Thơ ơi có lạnh chỗ thơ nằm

Chiều mưa Đông Bắc ôi buồn quá
Thương bạn thương em lòng xót xa
Thương cả chính mình tên mất nước
Ngày cao thêm tuổi tuổi thêm già

Chiều mưa Đông Bắc ôi buồn quá
Nắng gió nơi đây vẫn đậm đà
Sao thấy lòng mình hiu quạnh lắm
Úa vàng tâm sự nỗi chia xa.

hoa văn

CÁI CÒN CŨNG KHÔNG

Ba năm lưu lạc xứ người
Xuân về chất ngất cho đời phấn bay
Võ vàng từng buổi vàng mây
Nghe đời mộng mị mà ngây mắt cười

Trăm năm hưng phế đổi đời
Ta ngây ngô trước một thời suy vong
Quê mình chín đợi mười trông
Quê người sáng hạ chiều đông hững hờ
Cung thương để lịm hồn thơ
Bao giờ cung hỉ bấy giờ hoa bay
Buồn về năm tháng đầy tay
Đợi cung lưu thủy những ngày hoàng hôn
Cơm vay nước mượn cũng buồn
Đã không đến cả cái còn cũng không.

hoa văn


ĐÊM BUỒN UỐNG
RƯỢU MỘT MÌNH


Đêm nay uống rượu sầu ly xứ
ruơụ đắng hay lòng ta đắng cay
bạn cũ còn ai đâu nữa nhỉ
ta buồn nhớ lại những cơn say

Và nhớ thuở nào mang súng trận
đêm đêm lửa khói mịt mù bay
nghe đời thương gọi đêm vàng sắc
trên áo thời gian dấu bụi đầy

 Quên làm sao được thời gian ấy
mưa nắng đầy khung tình thoáng bay
lại nhớ những ngày yêu mến cũ
nghe bâng khuâng cả lối hoa gầy 

Đã biết chuyện đời cơm với áo
thì vinh với nhục có ra gì
bao nhiêu cũng chỉ phù hư cả
sau trước rồi ra cũng biệt ly

Thương cho những bạn bè năm cũ
sớm phải nằm yên dưới mộ sâu
nỗi hận thù này còn mãi mãi
bạn ta ơi! thắng bại ai cầu

Ở đây xứ lạ buồn ghê gớm
có những người quen muốn lạ dần
có những tâm hồn như lá cỏ
chuyện còn chuyện mất cũng phân vân

Tình đời vẫn lạnh như mưa gió
một nỗi sầu riêng một nỗi mình
vui cứ ra đi buồn cứ lại
ly đầy đong cạn ruợu phù sinh.

hoa văn


*****************
ĐÔNG ANH

Đông Anh là bút hiệu của nhà thơ Nguyễn Đình Tạo, tác giả ba thi tập: Chín Năm Tù Ngục (1989) . Chim Di Trú (1997) và Hoa Giáp Đông Anh (2000).  Ba tác phẩm là ba mảng đời nổi bật mà Đông Anh đã đưa vào thơ, đã phơi trải lòng mình trong đó. Thơ Đông Anh có phong độ vững chải, niêm luật phân minh, vần điệu và ý tứ hài hòa, không sáo ngữ, không lòe loẹt ngôn từ tối nghĩa theo “mốt” thời thượng. Ông là người yêu thơ, trân trọng văn chương chữ nghĩa nên trong thơ ông chữ nghĩa được dùng một cách cẩn trọng. Sở trường của Đông Anh là thơ Cổ Phong trường thiên. Ngựa Vực Hồn Thơ là một trong những bài thơ thuộc thể loại này. Lấy thời điểm 1954 là năm Ngựa, đất nước ngăn đôi bờ Bến Hải, “con ngựa” Đông Anh đứng giữa hai bờ sông Hiền Lương mà hí lộng cuộc cách ngăn ly tán tới con ngựa đầu thiên niên kỷ 2002, suốt nửa thế kỷ lưu lạc ngay trên quê hương mình cho tới ngày ngồi làm bài thơ trên xứ người, để nhớ lại một thời trai trẻ, xuôi Nam ngược Bắc, đem lý tưởng hiến dâng Tổ quốc:

Năm Tư  chấp cánh chuyển xoay đời
Ruổi rong cuộc sống trên lưng ngựa
Tiến Bắc bình Nam vạn dặm dài
Bến Hải Cà Mâu chừng nhỏ hẹp.
Cao nguyên biên trấn thép loang đồi

Nhưng rồi phải chăng mệnh nước, vận người đã được an bài bởi  hai ngôi sao Tuần Triệt trên lá số tử vi để cả đất nước và con người đều chung cảnh chia lìa tan tác:
Ngựa trú thiên di cùng khốc khách
Bỗng dưng tuần triệt cắt làm hai
Kẻ đi cùng cốc mùa lao cải
Người vượt thuyền con giữa biển khơi.
Từ khúc ngoặt lịch sử  30 tháng Tư  1975, và những năm, rồi nhiều năm sau đó, từ con ngựa Mậu Ngọ 1978, đất nước thay ngôi đổi chủ, nạn tham nhũng, vơ vét đã làm khánh tận nguồn tài nguyên, người dân sống trong bần cùng, xơ xác:
Bảy Tám ngựa què tan tác chạy
Đám người lốt khỉ bước lên ngôi
Dưới trên đều trổ tài vơ vét
Khánh tận non sông, bóc lột người
 .........
Giặc về phố thị dân lên núi
Gió hú hồn oan lạnh núi đồi
Cỏ gục mồ hoang trơ trọi đá
Xoi mòn đến cả khúc xương phơi

Trước thảm trạng đó, nhân loại khắp năm châu đã chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng của hơn hai triệu người dân Việt liều chết chạy trốn thoát cái chế độ vẫn tự cho là “ưu việt”ø:
Sài gòn vừa đổi tên đau hận
Sôi sục dân tình dậy sóng khơi

Rũ bỏ quê hường lìa bỏ nước
Đường đời ngăn cách nghĩa tàn phai.
Sau năm mươi năm làm một cuộc viễn hành từ quê quán tại Huyện Đông Anh, miền Bắc đi suốt dọc vào miền Nam, băng nửa vòng trái đất sang tới tận Mỹ châu, dừng lại trước thềm năm Con ngựa Nhâm Ngọ 2002, tác giả bài Ngựa Vực Hồn Thơ nghe hồn thơ chứa chan niềm băn khoăn và hy vọng:
Bao giờ dừng bước giang hồ lại
Tháo gỡ yên cương, cất rượu mời
Thắm má điểm hồng môi thiếu phụ
Trời xuân lại ngọt gió xuân tươi.
           (Ngựa Vực Hồn Thơ)
Ngựa Vực Hồn Thơ là một trong những bài thơ đặc sắc, từ ý lời đến tiết điệu của Đông Anh, bài thơ dài 118 câu. Cũng như bài “Sáu Mươi” của cùng tác giả, cả hai bài thơ đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ tham dự phụ họa rất tâm đắc.
Người xưa, Bà Huyện Thanh Quan khi bước tới Đèo Ngang đã nghe lòng chùng xuống mà thốt lên:
            Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
            Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Đông Anh, sau 25 năm lưu lạc, ngồi nhìn lại cuộc đổi đời, trước mắt chập chờn bao cảnh tượng hãi hùng đổ ập xuống con người Việt Nam kể từ cuộc chiến Bắc Nam. Từ xứ người, tâm hồn dấy lên niềm miên man tưởng nhớ:
Bên bờ Potomac
Tưởng bến sông Sài Gòn
Gió từng cơn ly mặc
Gọi lá trút linh hồn
Người xưa nói “văn là người”. Thơ Đông Anh thể hiện rất rõ nét con người của ông. Năm 1954 người thanh niên Nguyễn Đình Tạo theo học khóa Cương Quyết Phụ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, tháng 10 năm 1954 ra trường.

Phục vụ trong quân đội cho tới ngày cuối cùng của miền Nam Tự Do. Sau 9 năm tù Cộng Sản, ông vượt biên tới Galang năm 1985. Qua Mỹ năm 1986. Là một Cán sự Xã Hội hiện cư ngụ và làm việc tại San Jose, California. Tác giả lấy tên huyện Đông Anh thuộc tỉnh Phúc Yên, ngoại thành Hà Nội làm bút hiệu.

NGỰA VỰC HỒN THƠ

Xoay vần trời đất năm con ngựa (1)
Cuốn bụi mù tung khắp đất trời
Bốn tám năm qua cuồng bốn vó
Thăng trầm theo gió lướt trần ai
Năm mươi năm trước, năm năm bốn
Háu đá bờm cao sấn tới đời
Thế giới tưởng chừng như hẹp lắm
Bắc Nam phi một nhịp mà thôi
Đông Anh từ giã mùa Xuân sớm
Hà Nội mờ sương khuất núi đồi
Ánh điện Long Biên nhòa nước mắt
Hồng Hà soi bóng lạnh lùng trôi
Bên kia sông Đuống, Loa Thành khuất
Hồn gái Mỵ Châu khóc giữa trời
Một nhát gươm đưa lìa phụ tử
Hoàng bào, lông ngỗng gió chơi vơi
Quê hương bỗng chốc chìm trong tối
Vó ngựa cô đơn giữa đất người (1954)

Cương thổ hoàng triều treo vách núi
Mây mờ che khuất ánh trăng soi
Băng hồ Than Thở, đồi Nam Bắc
Lên đỉnh Lâm Viên dựng mặt trời
Mài kiếm rèn quân học chiến trận
Vó câu trui luyện với chông gai
Mai sau chân ngựa bền gang thép
Là lúc tang bồng thỏa chí trai

Bốn mũi tên bay về bốn hướng
Năm Tư  chấp cánh chuyển xoay đời
Ruổi rong cuộc sống trên lưng ngựa
Tiến Bắc bình Nam vạn dặm dài
Bến Hải Cà Mâu chừng nhỏ hẹp
Cao nguyên biên trấn thép loang đồi
Sương đêm trĩu nặng trên cành lá
Đợi ánh trăng về thổn thức rơi
Giữa chốn rừng sâu mòn giấc điệp
Vang vang ngựa hí gọi bên trời

Vào năm sáu sáu mùa bom đạn (1966)
Chiến trận tung hoành khắp khắp nơi
Ven biển kình ngư tung sóng bạc
Rừng thiêng bạch hổ cũng vươn vai
An pha lâm chiến hồn thiêng dậy
Chiến mã bay ngang động đất Hời
Suốt dãy Trường Sơn bùng chiến địa
Sông Tiền sông Hậu lửa đầy vơi
Phủ Rồng ngơ ngác thay tân chủ
Ngờ nghệch làm dơ cả cánh mai
Ngựa trú thiên di cùng khốc khách
Bỗng dưng tuần triệt cắt làm hai
Kẻ đi cùng cốc mùa lao cải
Người vượt thuyền con giữa biển khơi
Bảy Tám ngựa què tan tác chạy (1978)
Đám người lốt khỉ bước lên ngôi
Dưới trên đều trổ tài vơ vét
Khánh tận non sông, bóc lột người
Đưa nước lui về thời lập quốc
Xóm nghèo im bặt tiếng à ơi
Giặc về phố thị dân lên núi
Gió hú hồn oan lạnh núi đồi
Cỏ gục mồ hoang trơ trọi đá
Xoi mòn đến cả khúc xương phơi
Trùng trùng đánh thức căm hờn dậy
Dù chết vong linh vẫn sáng ngời
Ai luận anh hùng trong chiến bại
Kiên cường đâu thẹn chí làm trai
Chiều chiều đứng lặng trên đầu núi
Níu ánh tà dương tận cuối trời
Nhìn cánh sao băng qua đỉnh gió
Kêu sương tiếng vạc suốt đêm dài
Sài gòn vừa đổi tên đau hận
Sôi sục dân tình dậy sóng khơi
Rũ bỏ quê hường lìa bỏ nước
Đường đời ngăn cách nghĩa tàn phai
Ngựa Hồ theo bóng đàn chim Việt
Tìm mãi mùa Xuân ở xứ người

Thập kỷ Chín Mươi mòn mỏi bóng (1990)
Đường về biền biệt hỏi cùng ai
Rêu xanh trước ngõ còn chân ngựa?
Hay đã tàn theo những nhánh mai?
Bỗng một ngày Thu mờ khói lửa (2)
Đạn bom hỏa tiễn nổ lưng trời
Công trình vạn cổ nay bình địa
Tro bụi phù du một kiếp người
Thù hận tràn dâng như thác lũ
Oan hồn vất vưởng khắp nơi nơi

Tình thương vun xới bao năm trước
Phút chốc tan tành nước cuốn trôi
Quyết vượt trùng dương đòi nợ máu
Tinh cầu lênh láng máu xương phơi
U buồn đôi mắt bao sương phụ
Dang dở niềm đau suốt cả đời
Chiến mã về cùng thiên kỷ mới
Mở ra trang sử hai ngàn hai (2002)

Bao giờ dừng bước giang hồ lại
Tháo gỡ yên cương, cất rượu mời
Thắm má điểm hồng môi thiếu phụ
Trời xuân lại ngọt gió xuân tươi
Không gian trở lại thời gian cũ
Phơi phới nòi tình mọng má môi
Ngựa vực hồn thơ bừng gió cuốn
Tiếng đàn réo rắt khắp muôn nơi
Ta về sửa soạn xe song mã
Để đón đưa em trọn cuộc đời

đông anh
Xuân Con Ngựa 2002

(1)        Các năm Ngựa: Giáp Ngọ 1954; Bính Ngọ 1966;
Mậu Ngọ 1978; Canh Ngọ 1990; Nhâm Ngọ 2002
(2)        Ngày 11 tháng 9 năm 2001, hai tòa nhà chọc trời tai
New York thành bình địa.


****************
DUY NĂNG
1935 - 2002

Có nhiều bằng chứng cho rằng thơ là một thể hiện chính xác nhất bản sắc của tác giả bài thơ. Nhà thơ còn là một nhà tiên tri, bởi vì ngôn ngữ thơ là một thứ ngôn ngữ bộc phát từ tiềm thức, từ cõi không. Khi một số đông người cầm bút, những nhà thơ, nhà văn, những bạn bè, chiến hữu và thân nhân đưa tiễn Duy Năng đến nơi an nghỉ cuối cùng dưới một dãy chân đồi thơ mộng trong  một nghĩa trang ở Hayward thì nhiều người đã thốt lên: Đúng rồi! đúng là Giấc Ngủ Chân Đèo của anh.
Nhà thơ Duy Năng đã bỏ dở cuộc chơi đầy hăm hở và hào hứng chỉ mấy ngày sau khi anh cùng các thân hữu trong Ban Biên Tập gặp nhau bàn bạc một số tiền đề cho tập Bút Luận 25 Năm Thơ Hải Ngoại. Anh là một trong ba người được chỉ định viết lời giới thiệu tác giả và tác phẩm cho tập Bút Luận này. Duy Năng đã ra đi, để lại rất nhiều thứ, trong đó có bao nhiêu việc bộn bề mà anh đặt ưu tiên hàng  đầu cho Văn  Học và sinh  hoạt với Cơ  Sở Thi  Văn Cội Nguồn. Là một người làm thơ khoác áo lính, cho đến cuối đời, Duy Năng đã để lại cho văn học bốn tác phẩm:
 Giấc Ngủ Chân Đèo * thơ, nhà xb Trường Giang, Sài Gòn 1964    Vẫn Đời Đời Hoài Vọng * thơ    Dặm Nghìn * thơ.  Giữa Dòng Nghịch Lũ * truyện dài.
Bút hiệu Duy Năng khởi sắc từ những năm đầu của thập niên 50, thông qua nhiều bài thơ đăng tải trên các tờ tuần báo như: Quê Hương, Hồ Gươm, Giác Ngộ, tại Hà Nội. Sau hiệp định phân hai Nam Bắc 1954, anh vẫn có thơ góp mặt đều đặn trên báo chí như các tờ: Thẩm Mỹ, Việt Bút, Văn Nghệ Tiền Phong, Đời Mới, Sáng Tạo, Bách Khoa, tại thủ đô Sài Gòn.
Sự nghiệp văn chương của Duy Năng không chỉ gói gọn vào bốn tác phẩm văn thơ, anh có hàng trăm bài viết, đủ thể loại, đã được lưu hành phổ biến khắp nơi, trong đó anh đã góp mặt cùng cơ sở thi văn Cội Nguồn với mười tuyển tập. Anh là một trong những sáng lập viên Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn. Ngoài ra, anh cũng là cây bút chính trong tập san Đa Hiệu, của trường Võ Bị Quốc Gia.
Duy Năng cũng là hội viên Hội Văn Nghệ Sĩ  Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tên tuổi của Duy Năng đã được nhiều nhà biên khảo văn học đề cập đến trong các tác phẩm của họ. Trước bình minh lịch sử của miền Nam, anh đã chọn lựa dứt khoát hướng đi tương lai, nhắm đến cổng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Tốt nghiệp khóa 14, và chính từ ngôi trường mẹ, nuôi chí nguyện tang bồng hồ thỉ, anh đã được soi sáng lý tưởng tự do, nhân ái, được đọc và nghe, về nguy cơ cái gọi là: “Chủ Nghĩa Xã Hội”, đang áp đặt lên nửa phần đất quê hương.
Trong bốn tác phẩm của Duy Năng, nội dung thể hiện nhất quán lý tưởng và lòng yêu nước mà tác giả đã chọn lựa để dấn thân và phụng sự:

GIẤC NGỦ CHÂN ĐÈO - Tập thơ gồm 16 bài, có hơn một nửa là những bài thơ nói lên giai đoạn lịch sử mà quân dân miền Nam bừng bừng khí thế đứng lên tự vệ, chống lại hiểm họa Cộng Sản. Lớp người trai trẻ mà tác giả là một trong những biểu tượng hào hùng đó đã hùng dũng bước đi với một hào khí ngút ngàn:
            Khói lửa mười năm ... tôi lớn
            Đem thân đi gởi thao trường

Bài thơ tiêu biểu cho thi phẩm đầu tay này có cùng tên với quyển sách. Giấc Ngủ Chân Đèo, bài thơ dài trên 130 câu, người đọc như còn nghe vang vọng tiếng ca của đoàn quân tây tiến ngày nào truy đuổi giặc:
            Ba lô làm gối chứa mộng mười phương
            Lửa không đốt mùa thu
            Thương nhớ về nhau vừa đủ ấm.
 Đoàn quân Tây tiến của Quang Dũng là những chàng trai khi quân thù về, họ bỏ nhà đi theo kháng chiến “Cha mẹ tiễn con đi không bịn rịn” mà “Ngày con về cha mẹ chết từ lâu” sau những trận đòn cực hình trong các cuộc đấu tố. Đoàn quân trong Giấc Ngủ Chân Đèo là những chàng trai miền Nam ra đi đáp lời sông núi gọi, tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ thôn làng, bảo vệ một nửa đất nước khỏi sự xích hóa của chủ nghĩa Cộng sản. Tác giả đã vẽ lên toàn cảnh một bức tranh thời thế và xã hội Việt Nam giữa hai miền Nam Bắc thời kỳ sau Hiệp định Genève. Bức tranh phác họa một sự tương phản đến tàn nhẫn. Bến Hải đã ngăn chia hai bờ đất nước, Miền Bắc bị nhuộm đỏ, màn đêm bao phủ, ngột ngạt, tối tăm, một triệu người bỏ miền Bắc chạy thoát vào miền Nam.
Đất nước hai màu cờ, bên này bờ Nam “đêm ngàn sao rực rỡ”, những nẻo đường anh đi qua, những bản làng anh tới, những chặng đường anh dừng chân, nơi nơi cuộc đời rộn rã, bừng bừng sức sống. Xã hội miền Nam đã kiện toàn về mọi mặt. Sự phát triển, thăng hoa ngoạn mục về các lãnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và văn học nghệ thuật lúc bấy giờ đã cung cấp nguồn cảm hứng và chắp cánh cho những tâm hồn văn nghệ bay cao.

VẪN ĐỜI ĐỜI HOÀI VỌNG - Hơn năm năm, sau tác phẩm đầu tay Giấc Ngủ Chân Đèo, thi phẩm thứ hai “Vẫn Đời Đời Hoài Vọng” được hình thành. Đây là tác phẩm được kết tinh bởi tư duy trăn trở, của một chiến sĩ văn nghệ Việt Nam Cộng Hòa, đối diện cuộc chiến đến hồi ác liệt, đã hiện rõ ý thức hệ Mác Xít. Tiêu biểu của tác phẩm “Vẫn Đời Đời Hoài Vọng” được cô đọng ở bài “Lời Thầm Lặng cho Quê Hương.”  Cả cuộc đời trai trẻ, cả nhiệt huyết, khát vọng, và trên hết là cả tấm lòng yêu nước của Duy Năng đã được thể hiện một cách chân thực nhất, đầy đủ nhất trong bài trường thi này.

DẶM NGHÌN - “Dặm Nghìn.” là nơi trang trải tình yêu, khát vọng, mối băn khoăn trăn trở của Duy Năng sau hai mươi ba năm, kể từ ngày “bỗng dưng gãy súng đầy oan nghiệt” và luân lạc nơi xứ người. Thơ Duy Năng và Dặm Nghìn không chỉ cô đọng ở hai chủ đề về cuộc ly tán của cả nước trước biến cố 30-4-75 với cuộc di cư vĩ đại nhất của người Việt Nam bỏ nước ra đi, sống đời lưu lạc; trong Dặm Nghìn còn có những tình tự thiết tha với tình yêu và kỷ niệm thời trai trẻ, với nỗi lòng tưởng nhớ đến mẹ già, với tình cảm bạn hữu, với lịch sử dân tộc, với những tấm gương anh hùng, nữ-nhi lẫm liệt.
Dặm Nghìn gồm 23 bài thơ với các thể loại Lục Bát, thơ mới và Cổ Phong. Thơ bảy chữ là loại thơ sở trường của Duy Năng. Thơ Duy Năng, nói chung lời trau chuốt, chọn lọc; ý sắc sảo, thâm sâu, ý lời gắn bó hài hòa. 
Duy Năng tên thật là Nguyễn Văn Trí. Sinh ngày 25 tháng 1- 1935, nhằm ngày 24 tháng 12 năm Giáp Tuất.
- Sinh quán và trú quán tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
- Chánh quán làng Thái Dương Hạ. Huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Trong lần gặp gỡ cuối cùng Duy Năng trao cho chúng tôi bài thơ “Từ Thuở Hồn Xuân Chưa Sỏi Đá”, anh đã thổ lộ tâm sự, kỷ niệm và cảnh ngộ khi làm bài thơ này. Anh nói: “Bài thơ chưa đăng báo, chỉ để dành riêng như một kỷ vật lưu lại....” và anh yêu cầu chúng tôi chỉ đưa một bài này vào tập Bút Luận. Bài thơ nói lên một mối duyên văn nghệ suốt một quãng đời dài bốn mươi năm, qua những thăng trầm chữ nghĩa, giữa buổi loạn ly, lạc nghé tan đàn bởi biển dâu thời thế, để rồi đến một phút giây định mệnh, bốn mắt nhìn nhau tĩnh lặng, thả vòng tay với hẹn hò một kiếp khác. Chúng tôi trích đăng thêm hai bài thơ khác của Duy Năng, những bài thơ Lục Bát anh viết từ hải ngoại, trao gởi cả tâm tình, tự sự về cố quốc, về mai sau.


TỪ THUỞ HỒN XUÂN
CHƯA SỎI ĐÁ

Ta đọc nhau từ bốn mươi năm
Biết nhau qua chữ nghĩa thăng trầm
Thương ai đã viết cho người lính
Những tiếng thân thương rất mặn nồng

Thuở đó ta còn rất mộng mơ
Với bao ước hẹn để mong chờ
Với bao hoa gấm riêng thêu dệt
Hạnh phúc, niềm đau, giữa cõi thơ

Em một trời riêng, ta cõi riêng
Hào quang một góc đắp xây nền
Em bao mời gọi đời trao tặng
Ta cũng đời riêng những ước nguyền

Ngưỡng mộ nhau nhưng chẳng một lần
Tài hoa tìm hội ngộ giai nhân
Phải chăng vạn sự đều thiên định
Nên khiến thời gian nối lặng câm

Hay bởi lòng kiêu hãnh tự hào
Nhìn người thấp chỉ một mình cao
Trời xa biển rộng trong tay với
Chẳng khó khăn chi để bước vào

Than ôi, tuổi trẻ đầy tham vọng
Đâu biết chông gai giữa đất trời
Bốn mươi năm đã nay nhìn lại
Mới thấy thương cho tuổi trẻ đời 
Nếu như bốn chục năm về trước
Ai gọi cho ta tựa lúc này
Chắc hẳn hồn xuân chưa sỏi đá
Dễ dàng cho mắt đắm môi say

Năm tháng dần qua, quay ngắm lại
Bỗng thấy thương cho những dại khờ
Tuổi mộng chất đầy bao ảo vọng
Những vòng nguyệt quế sáng trong mơ

Bốn mươi năm đã như người lạ
Bỗng tiếng lời trao dậy giữa trời
Làn sóng âm ba nào giục giã
Mà hồn phiêu lãng thấy chơi vơi

Ta tưởng chừng như tự kiếp xưa
Cùng ta, chung một lối đi về
Cùng ta trọn vẹn nên trời giận
Đày ải ta cùng nhau cách chia.

Cho xuống trần gian đó với đây
Tài hoa cho mỗi đứa trong tay
Nghe danh nhưng chẳng tìm nhau đến
Lớn mãi kiêu sa với tháng ngày

Trời đẩy ta vào kiếp chiến chinh
Còn em lặn lội chép điêu linh
Điêu linh chinh chiến ta cùng gánh
Chung với trầm luân đất nước mình.

Ôi những trầm luân những nổi trôi
Cánh chim tan tác bốn phương trời
Sa cơ, đồng đội, ta chung chịu
Nghé lạc đàn tan giữa cõi đời 

Những tưởng không còn nghe đến nhau
(ai còn nhớ được đến ai đâu)
Trong cơn ly tán bi thương ấy
Nước mất nhà tan... cuộc bể dâu

Cuộc bể dâu nào riêng của ta
Bốn mươi năm bỗng có đâu ngờ
Tên xưa gặp lại trên trang báo
Rồi... tiếng xưa về tự cõi xa.

Tiếng của lòng ai hay của thơ
(tiếng nào cũng vẫn tưởng trong mơ)
Cho ta quên được đời đang thực
Đầy dẫy niềm đau khắp bến bờ

Nghiệp chướng nàng thơ đeo đuổi ta
Mong chờ, ước vọng... chỉ can qua
Lòng xưa tiếng nói, hư hay thực
Gần gũi mà như vẫn cách xa

Chỉ thấy gần trong cổ tích xưa
Có người tóc xõa suối nên thơ
Để chàng thi sĩ hôn lên tóc
Và thắm trên môi nỗi đợi chờ

Rồi giữa vòng tay siết chặt nhau
Mắt nhìn tĩnh lặng chỉ nên câu
Là đây huyết quản chung dòng chảy
Hiện hữu hay là mãi kiếp sau.

duy năng


RỘN RÀNG
XUÂN DẪU NƠI ĐÂY


Này xuân rộn rã làm gì
Với thân luân lạc từ khi cõi ngoài
Dặm nghìn cố quốc xa xôi
Những thao thức, những bồi hồi năm canh

Cánh chim từ buổi viễn hành
Hạc vàng lầu cũ, thôi đành một phương
Thôi đành một cõi mù sương
Nghiêng nghiêng lối dốc, hoa vườn Bích Câu

Mộng thơ từ một ý sầu
Tưởng như ngàn trước ngàn sau cuộc này
Nghe chim thủ thỉ vòm cây
Nghe ta trong nỗi riêng đầy vơi xuân
Dặm nghìn cố quận muôn trùng
Vẫn đang trăm họ tơ chùng phím lơi

Héo hon trên những nụ cười
Có đâu mà lạ giữa trời quê hương
Những lòng ly tán nhiễu nhương
Những hiu hắt mộng, những vàng vọt mơ
Những mong những ước những chờ
Sẽ thơm quá khứ về bờ tương lai
Bao nhiêu năm một chuỗi dài
Sắc hương thôi cũng u-hoài cỏ cây 

Rộn ràng xuân dẫu nơi đây
Hồn ta vẫn tuyết sương ngày thu đông
Từ thân luân lạc nghìn trùng
“ Đê đầu tư cố hương”(*) lòng ngổn ngang.

duy năng
San Francisco, tháng 3-1995
Trích Dặm Nghìn, tác giả xb 1998


(*) Cử đầu vọng minh nguyệt
      Đê đầu tư cố hương - Lý Bạch

**************
TUỆ NGA

Cùng với tuổi đời, Thơ Tuệ Nga có một bề dày trong văn học, với tám tác phẩm đã xuất bản:   Suối * 1974   Suối Trầm Tư * 1982   Mây Hương * thơ  đạo *1987   Chiều Phố Mây * 1991   Hoa Sương * 1994   Hoa Đài Dâng Hương * 1995   Nửa Viền Trăng * 1997    Suối Hoa * 1999 
SUỐI là thi phẩm đầu tay của Tuệ Nga và cũng chính SUỐI là khởi đầu dòng chảy liên tục, đằm thắm mà triều dâng của tâm cảm Tuệ Nga dành cho Thơ. Suối đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật tại Sài Gòn năm 1974. Là một nhà thơ nữ, sinh trưởng tại quê hương Quan Họ, thơ Tuệ Nga có đầy chất lãng mạn, trữ tình, đậm đà mà thanh thoát. Tuệ Nga vào làng thơ rất sớm. Bà là hội viên Thi Đàn Quỳnh Dao, một thi đàn kỳ cựu với nhiều nhà thơ lão thành.
Đọc hết tác phẩm của Tuệ Nga, người ta có thể tìm thấy ở tác giả một tâm hồn rất thơ, rất tình mà cũng rất cao trọng những giá trị tinh thần trường cửu.

Có một lúc nào đó bà nhớ về Mưa Hà Nội, mà nghe mưa trong hồn. Có một lúc nào đó bà trải lòng mình cho bằng hữu. Có một lúc khác, bà lắng lòng dâng lên ánh đạo.
Đối với Tuệ Nga, Đạo là cả một nguồn cảm hứng của Thơ. Tuệ Nga đã có hai tập thơ đạo Hoa Đài Dâng Hương và Mây Hương. Theo nhận định chung, thơ Tuệ Nga có hai khuynh hướng chính, đó là thơ  “hoài cảm nước non” và thơ đạo. Trong thơ Đạo, thơ nhuốm vị sắc thiền, đời thấm nhập vào đạo và đạo huyền nhiệm vào đời:
Từ dòng trăng vô lượng
Kinh hoa nở muôn mùa
Từ dòng kinh thi hóa
Tiếng đời êm tiếng thơ
 Một lúc khác bà lại trăn trở với hoài niệm cố hương:
Em ơi! Chiều Viễn Xứ
Về đâu? hồn heo may
Về đâu? đời cỏ úa
Lệ rưng rưng bước gầy
Bao nhiêu hình ảnh quen thuộc thân thương, chung dòng quá khứ ắp đầy ký ức, đè nặng hồn thơ:
            Những con đường chiều thương nhớ mênh mang
            Mây Cổ Ngư, nắng Nghi Tàm, Quảng Bá
            Gió mùa Thu lá vàng bay nhiều quá
            Hà Nội bốn mùa phất phới áo bay
            Những con đường Hàng Bạc, Hàng Khay
            Chợ Đồng Xuân, liễu Hồ Gươm Phố Huế
            Những con đường trải qua bao thế hệ
            Gò Đống Đa, Quốc Tử Giám, Sinh Từ
            Những con đường như huyền thoại viễn du
            Bỗng trở về ngổn ngang trong tiềm thức
                        (Những con đường - Hoa Sương)         
Nỗi nhớ đó như không còn bút mực nào đủ để diễn đạt hết. Nhà thơ mang theo tình quê nghĩa nước đi suốt cuộc nhân sinh của đời mình:

            Mực khô bút cũng hao gầy
            Tình non nước khắc đến ngày tàn hơi
             (Xuân Về Trên Sông Mưa)
Với tình đồng bào ruột thịt, khi nghĩ tới tưởng chừng như xé ruột bào gan:        
Tôi bâng khuâng, tôi thầm tự hỏi mình
Quê hương tôi có thật sự hòa bình?
Quê hương tôi người người đang hạnh phúc?
Quê hương tôi không còn ai oan ức?
Bị tù đầy bắt bớ oan khiên!
Có thật sự quê tôi bình yên?
Tôi thầm hỏi, rồi tôi thầm nghĩ
Vẫn trùng trùng phi lý
Vẫn trại giam cải tạo tù đày
Triệu người dân vẫn sống cảnh lất lây!
Bút bẻ cong, đâu tự do tư tưởng
            (Mùa Xuân thăm giàn Thiên Lý)

Trong cả “một trời thơ Tuệ Nga”, tác giả đã dành phần lớn các tác phẩm để thể hiện nỗi trăn trở, thao thức, băn khoăn trước thảm họa chiến tranh, đất nước chia cắt, tình tự dân tộc chia lìa. Cuộc chiến đấu của nửa phần đất nước bảo vệ tự do, hạnh phúc cho con người, duy trì giường mối xã hội...  để rồi ngày kết cuộc, 30 tháng Tư 1975 miền Nam bị nhuộm đỏ, dòng thơ đó lại theo dòng Văn Học miền Nam nối dài tới hải ngoại. Từ đây, tác giả lại tiếp nối vần điệu nỗi niềm của một người con mất mẹ, xa quê hương, xa tổ quốc. 
            Người đi nhớ nước non nhà
Ai nhìn mây trắng thiết tha cội nguồn
.........
Đường về quê mẹ mây bay
Mây giăng kín nẻo, mây đầy thơ tôi
Hăm lăm năm! Bấy ngậm ngùi
Ơi thơ, vẫn thế! Xót đời ly hương.

Ở tuổi đời bước vào Hoa Giáp, từ ngày bỏ nước ra đi, đã hết nửa đời, nửa đời chưa một lần quay lại. Bên kia bờ đại dương là quê hương yêu dấu, nỗi nhớ tha thiết hiện lên ánh trăng trong, vầng mây bạc, ngọn gió hắt hiu, mái chùa cong, đồng ruộng xanh, dòng lịch sử... tất cả như xoáy vào tâm can người con viễn xứ mà ngày về vẫn là cơn mộng huyễn, tác giả đã mượn vầng trăng xưa để ký thác nỗi buồn xa vắng, khối tương tư mênh mông trĩu nặng, nỗi cảm hoài, ai oán thiết tha trong bài Vầng Trăng Cổ Độ. Đây là một bài thơ diễn đạt đủ ý tình như vừa kể lồng trong một ý thiền bát ngát.



 VIỄN PHƯƠNG CHIỀU GIÓ

            Ném theo hưng phế vào hư ảnh
            Có thấy lòng sâu biển động vang


Tìm trong đáy chén lòng gương
Thấy chăng vài mảnh tang thương não nùng
Nẻo nào dẫn đến vô cùng
Thơ nào thả gió ngại ngùng vần đau

Đêm sương con Quốc vọng sầu
Đôi bờ trăng lạnh một mầu quan san
Sông thu mộng ảo kê vàng
Cánh mây lữ thứ vắt ngang lưng đèo

Viễn phương chiều gió hắt hiu
Tôi đi trong gió nghe nhiều xót xa
Bốn phương mây trắng đâu nhà
Cung đàn biệt xứ âm ba đáy hồn

Tuổi chiều đã sậm hoàng hôn
Cánh thơ thả gió nghe buồn dâng cao
Bay về đâu? Tới trời nào?
Bài thơ nhớ nước gửi vào hư vô

Nếu đời là một chuỗi thơ
Thì thơ thả gió lững lờ mây bay
Mây ơi! Mang nhé sầu này
Mang về đất Mẹ thả đầy sông xưa

Viễn phương nắng trải vàng tơ
Sao nghe xối xả cơn mưa trong hồn
Tôi đi trong gió thu buồn
Gọi thầm phố cũ, quê hương phương nào
Lạnh lùng một cánh lá chao
Lá ơi! Lá dạt phương nào gió bay!

tuệ nga
Oregon, Thu 1988

TỪ DÒNG
SÔNG TRĂNG

Từ dòng sông trăng đó
Hoa ngủ quên kiếp sầu
từ dòng sông trăng đó
Đá trầm lời biển dâu
Từ dòng sông trăng đó
Thơ ngát ý nguyện cầu

Đêm mơ dưới ánh trăng thâu
Quẩy kinh ai đổ trên cầu nhân sinh
Sáng ra thức giấc hỏi mình
Là hư hay ảo, cội hình phù du

 Từ dòng sông trăng đó
Đá ướm hỏi lòng Thu
Vàng rơi bao kiếp nữa
Cây đứng lặng trầm tư
Sắc Không Vô Hình Tướng
Sao hỏi có vàng thu?

Từ dòng trăng vô lượng
Kinh hoa nở muôn mùa
Từ dòng kinh thi hóa
Tiếng đời êm tiếng thơ

Đêm qua chợp giấc lại mơ
Quẩy kinh ai đổ bên bờ suối hoa
Tiếng chim hót giữa rừng xa
Âm thanh lảnh lót Ngân Hà sông trăng.
tuệ nga
Oregon, Mùa Thu 1985

*******************
NGUYỄN THÙY

Y hướng sáng tác thi văn của Nguyễn Thùy thu gọn tiêu biểu: “luôn mong được thấy những con lộ thênh thang và xe cộ dập dìu, mang chứa cái ‘hồn hậu đơn thuần’ của con đường điền dã”, nhưng lòng đường lại luôn luôn bảo lưu. Cái “hồn hậu đơn thuần” định tính lối đi riêng của tác giả - một cách thế trở về tìm căn nguyên lịch sử đất nước và bản thể dân tộc để bắt gặp được những phế hưng, dâu biển, những bi hùng quá khứ ngàn xưa đến ngày nay, với nỗi xót đau thương cảm:

            Hỡi lịch sử, ta thương mình quá đỗi
            Ta thương mình vì nỗi bởi ta đau
Tình huống chiến tranh trầm luân khốn đọa, tai ương, tàn phá, lắng xuống đáy thời gian, thơ mang khí chất khác, tầm nhìn hiện thực giữa khung cảnh phức điệu đời sống, độ nghiêng lệch rơi theo chiều sâu tâm hồn, sông núi vào truyền thuyết và huyền thoại mang tính sử thi:

Chuyện đời xưa
Chàng chăn trâu lấy nàng chức nữ
Gái nhà vua yêu trộm kẻ chèo thuyền
Trai anh hùng sánh với gái thuyền quyên
Tinh thần tự do luyến ái, yêu chuộng bình đẳng, không phân cách thứ bậc, giai cấp trong tình yêu là hiện thể đặc thù dân tộc tính, đã hình thành từ buổi nguyên sơ lập quốc của giống nòi Hồng Lạc Rồng Tiên:
            Từ Bố Cái hợp hoan lịch sử
            Nòi Rồng Tiên chuyển dịch âm dương
            Nguyên sơ dựng lập cương thường
            Trăm con trứng nở một phương địa đàng
                        (Lập Quốc)
Dòng lịch sử đất nước mấy khi yên ổn phẳng lặng theo chiều dài hơn bốn ngàn năm. Luồng gió gây hấn, thôn tính của thù địch từ phương Bắc, phương Tây, nội chiến, tranh chấp quyền lực, gây nên cảnh “củi đậu nấu hạt đậu” đã đưa con thuyền vận mệnh đất nuớc gập ghềnh giữa cuồng phong nguy biến:
            Gió vẫn gió dập dồn gieo hiểm họa
            Trùng trùng mưa che khuất nẻo sao trăng
            Anh hoảng hốt nghe khắp mình băng giá
            Lạc tay chèo thuyền dạt sóng lênh đênh
            ( Gió)
Thấm nhuần lịch sử, ưu tư lịch sử để thao thức xót xa là nét nổi bật trong thơ Nguyễn Thùy. Ông sinh ra tại Huế. Năm 1936 trở về theo học tại quê hương Quảng Nam. Lớn lên  chạm mặt với thời cuộc sôi bỏng, ông tham gia cuộc chiến 1949-1950 chống ngoại xâm. Rời hàng ngũ, trở về Sài Gòn tự học, đi dạy, mở trường tư, làm công chức, tư chức, theo học Đại học Văn Khoa. Tháng 12-1988 vượt biển sang Mã Lai. Định cư tại Pháp từ năm 1989. Nguyễn Thùy là tác giả của nhiều thể loại: Thơ, truyện, tiểu luận, biên khảo... Ông đi sâu vào lãnh vực thi ca
yêu nước, khơi gợi truyền thống bất khuất hào hùng của dân tộc, và làm sống lại những trang sử bi hùng...

Cuộc chiến Nam Bắc cuối thế kỷ Hai Mươi kết thúc tháng Tư - 1975 là một kết cục bất ngờ, bi thảm mà tác giả là một nhân chứng và là nạn nhân hứng chịu nỗi oan cừu đã vang động lời non nước cùng ước vọng của con dân lưu lạc:
            Việt Nam ơi, Việt Nam ơi
            Tiếng em tôi gọi ru lời nước non
            Mai đây nước lại về nguồn
            Đầu non em tắm sạch buồn thế gian
                        (Việt Nam ơi Việt Nam)

Nếu lịch sử  là một cuộc tái diễn và mỗi dân tộc mang nặng trong hồn lịch sử của tổ quốc mình để sống, để chiến đấu, tin tưởng và hy vọng thì những dị sử chỉ là tạm thời tồn tại:

            Trong ta cõi đất, cõi trời giao nhau
            Nghìn năm sau trước trước sau
            Dễ ai dựng vách ngăn rào núi sông
            Đứng lên đi, giống Lạc Hồng
            Xóa tan dị sử dẹp dòng can qua
                        (Rồng Tiên Vào Hội)

Không gian chân trời cũ hiển hiện lên những mảng màu pha trộn đậm nhạt bàng bạc giữa thời gian hiện hữu, gợi thức những hồi niệm gửi gắm vào những đoạn thơ bóng bẩy, tượng trưng, mang đủ ý nghĩa diễn đạt, có thể nói là sở trường của Nguyễn Thùy:
            Ta gọi gió từ cuối trời dĩ vãng
Bến bờ nào thiết dựng tự nguyên sơ
Từng cơn lốc thổi tung trời hỗn loạn
Vũ trụ tình thai nghén một cơn mơ
Em có nghĩ từ xưa không gió lốc
Tình đôi ta một khối rỗng không thôi
Từ nguyên thủy một hôm trời lập cập
Gió lồng lên, một Tiếng Gọi nên lời
            ( Gió)
Nguyễn Thùy đã khẳng định được thơ của mình - vững vàng, bề thế trong tư duy tình yêu đất nước, anh hùng ca, một thể loại được thêu dệt bằng phạm trù ngôn ngữ ước lệ, giả tạo, khôâ khan thường thấy phô bày trên thị trường chữ nghĩa tại hải ngoại. Nguyễn Thùy vượt lên khỏi vòng cương tỏa ấy. Thơ ông óng ánh nguồn sáng của ý thơ và lời thơ. Nguồn Thơ ẩn chứa tình tự đạo lý dân tộc, truyền thuyết. Thơ từ đó chẳng những có giá trị nhân văn lịch sử mà còn có tính nghệ thuật.
Tư duy thời đại của thân phận lưu vong luôn đòi hỏi yêu cầu tương ứng với cộng đồng lớn lao rằng lịch sử quê hương đất nước phải được ôn cố tri tân. Yêu tổ quốc, trước hết phải thẩm thấu ngọn nguồn lịch sử. Nhà thơ Nguyễn Thùy đã đáp ứng tận tụy cho sự nghiệp xiển dương lịch sử ngàn đời của giống nòi Hồng Lạc.      

G I Ó


Gió hỡi gió bốn phương trời gió dậy (l)
Chở về đây dông bão tự muôn xưa
Thuyền ta đó gió mặc lòng đưa đẩy (2)
Tình ta đây gió chở mãi không vừa

Ta gọi gió từ cuối trời dĩ vãng
Bến bờ nào thiết dựng tự nguyên sơ
Từng cơn lốc thổi tung trời hỗn loạn
Vũ trụ tình thai nghén một cơn mơ

Em có nghĩ từ xưa không gió lốc (3)
Tình đôi ta một khối rỗng không thôi
Từ nguyên thủy một hôm trời lập cập
Gió lồng lên, một Tiếng Gọi nên lời (4)

Gió chở Tiếng băng mình qua cõi tối
Dìu trăng sao vào núi biển sông hồ
Thuyền trôi mãi biết về đâu bến đợi
Gió quay cuồng lồng lộng nẻo hư vô

Gió vẫn gió từ bao đời cuồng nộ
Buồn hoang sơ từng độ trải mênh mông
Mộng kỳ dị vào trong Em buổi đó
Mà tình anh, Em hỡi, điệp trùng không!

Anh theo gió băng mình qua thế kỷ
Chuyện hải hồ phiêu bạt kiếp long đong
Để trăn trở thiên thu sầu vạn lý
Vì tình Em, ôi, gió lỗi hẹn muôn vàn!

Gió vẫn gió, từ bao đời vẫn gió
Anh kêu gào réo gọi một đê mê
« Cái gì có» trong dòng giông bão đó?
« Cuộc tình ta », Em hỡi, nói nhau nghe!

Gió vẫn gió dập dồn gieo hiểm họa                                                   
Trùng trùng mưa che khuất nẻo sao trăng
Anh hoảng hốt nghe khắp mình băng giá
Lạc tay chèo thuyền dạt sóng lênh đênh!

LƯU DÂN THI THOẠI  127
Bỗng sực tỉnh, anh trườn lên bão loạn
Vào cuồng phong, ngược lối, hướng trung tâm
Êm ả quá, giữa một vùng quang đãng (5)
Nụ cười Em óng mượt cả Thời Không.

Để hôm nay giữa chất sầu kỳ dị
Bước Em về vang động cả xưa sau
Thuyền mỏng mảnh cuối dòng thiên cổ lụy
Nhịp chèo khoan xoáy nước lại non đầu.

            nguyễn thùy

CHÚ THÍCH CỦA TÁC GIẢ:
(1) Gió: mượn Gió để nói lên hình ảnh từng cơn lốc lịch sử  trên thế giới và nơi từng Quốc gia, Dân tộc. (2) Thuyền: ám chỉ định mệnh lịch sử.
(3) Em: ám chỉ Lẽ Đạo, nguyên lý sinh thành và dòng vận hành sinh hóa của thế gian. Anh: chỉ mỗi dân tộc và cả nhân loại.
(4) Tiếng Gọi: Appel, mượn ý M. Heidegger: « Bởi Tiếng gọi từ một nguyên sơ thăm thẳm, một miền cố quận được hoàn trả cho chúng ta » (Par l’appel en une lointaine origine, une terre natale nous est rendue - Le Chemin de Campagne, bản dịch Pháp ngữ của André Préau, xem « Questions 111, Gal. Paris 1989), liên hệ với Le Verbe trong Tân Ước St Jean.
(5) Nơi trung tâm cơn lốc là một vùng thanh tĩnh, quang đãng.


***************
TÔ THÙY YÊN

Khởi đi từ Tạp chí Sáng Tạo do Mai Thảo chủ trương tại thủ đô Sài Gòn những năm đầu thập niên 1960, thơ Tô Thùy Yên xuất hiện đều đặn và được đón nhận như luồng sáng tạo mới về kỹ thuật cũng như cấu trúc thi ngữ.
Mặc dù nhóm Chủ Trương Tạp chí Sáng Tạo nuôi ý định triển khai dạng thức thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền cùng thời, nhưng chẳng được bao lâu, loại hình thơ kỳ bí cả từ lẫn ý này đã chìm vào quên lãng. Những cây bút quan tâm đến văn học, thi ca; và  người đọc, có ủng hộ, có công kích, chế diễu... Cuối cùng họ nhận ra một luận điểm - Thơ Tự Do mà tạp chí Sáng Tạo coi là hiện tượng mới chỉ là để nâng bốc, cổ vũ, chẳng mới mẻ gì. Trước 1945 đã có Nguyễn Xuân Sanh với Xuân Thu Nhã Tập, cũng chỉ sau một thời gian - còn lại chút dư âm lạc lõng. Đổi mới, làm mới thơ luôn là ước vọng của Văn Học thời đại và là nhu cầu nghệ thuật. Khái niệm tìm kiểu cách mới cho Thơ từ đó đến nay đã 40 năm, phải kể đến Tô Thùy Yên...

Trước năm 1975 chưa in tập thơ nào. Từø nhận thức giá trị Thơ xuất phát ở phẩm, không bao giờ là lượng, ông âm thầm sáng tạo. O. Valery nhận đinh “làm thơ là xây dựng một ngôn ngữ trong ngôn ngữ”, và Tô Thùy Yên đã tán đồng, hướng tới ... Ông vượt qua khỏi dòng thơ truyền thống bằng cách sử dụng thi từ mới, quay đảo âm vận, mà thơ vẫn không hề suy tổn phong vị,  giọng điệu, đứt đoạn cảm xúc.
Bước ngoặt lịch sử chiến tranh sau ngày 30-4-75, Tô Thùy Yên không xác định thời điểm và sự kiện cụ thể, vẫn tìm thấy dấu ấn, bằng màu sắc, âm thanh của một miền Nam thất trận. Cảnh tương tàn phơi bày, con người sợ hãi con người - cùng chung dòng giống, đánh động xót thương đến trời cao, tố cáo, oán hận chiến tranh:
            Mòn mỏi, thành Nam, nghĩa sĩ tận
            Kèn chiều mấy tiếng lạc trời quê...
            Pháp trường úng máu, khí xung uất
Ngần ấy năm còn nghe rợn thiêng
.......
Làng đã cháy, im lìm bất trắc.
Người nhớ người mà cũng sợ người
Trời ơi, những xác thây la liệt,
Con ai, chồng ai, anh em ai?
(nhớ có lần, trên bến bắc khuya,
nghe một ông lão đàn hát)
Những người mặc áo lính, ít nhiều đều có một vai trò lịch sử, chứng kiến và can dự cuộc chiến Bắc Nam. Lịch sử nhắc đến ít nhất hai lần cuộc phân ranh Nam Bắc, anh em một nhà ly tán, hận thù; đất nước cách sông, ngăn núi. Cuộc đời trăm họ, muôn nhà, một giấc chiêm bao cho cả người thua kẻ được:
            Nhớ xưa thiên địa làm ly tán
            Anh em nhà không ngó mặt nhau
            Người chạy về thành, kẻ nhảy núi
            Dốc đời cho một cuộc chiêm bao...

Trở về với thực tại, bối cảnh xã hội miền Nam, sau khi bị cưỡng đoạt, tập đoàn thống trị đã lộ diện - cung cách, thái độ sâu bọ trở thành sinh vật Thượng đẳng - trưởng giả học làm sang - vênh váo, ngạo mạn, hợm hĩnh: Giai cấp và con người mới đến đã vội vàng lột xác, từ thấp hèn cùng đinh, mang mặt nạ giả tạo cao sang, phù phiếm:

Xuân thu, du sĩ rao phương lược
Khiến mấy đời sau còn váng đầu
Xe kiệu rộn ràng cửa lớn nhỏ
Về ngang Thánh miếu, mặt vênh cao
Có người nghề nói thơ đầu chợ
Chạy sắc phong thi sĩ với đời
Có người hàng thịt sẵn dao nhọn
Cũng rắp ranh làm tráng sĩ chơi.
(Lão Trượng)
Tô Thùy yên, phục vụ trong quân đội VNCH, tên thật Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gia Định, lớn lên học Trung học, Đại học tại Sài Gòn. Sau ngày miền Nam bỏ súng, ông cùng đồng đội bị tập trung vào trại tù Cộng Sản. Tổng cộng 13 năm lưu đày, và qua 3 lần bắt bớ giam cầm do liên hệ hoạt động đấu tranh đối kháng. Qua quá trình ấy, thấm thía với thân phận con nguời và định mệnh đất nước, ông đã viết bài thơ “Ta Về”, một biểu tượng của kiếp tù đày trên quê hương, đồng thời thể hiện nhân sinh quan của kẻ sĩ của chính ông. Ta Về và Chuyến Tàu Đêm là hai bài trường thi của tác giả thể hiện toàn bộ một giai đoạn thống thiết và bi tráng của lớp sĩ phu thời đại, miền Nam trước những ngón đòn thù giáng xuống phần đời tươi đẹp nhất của họ từ bước ngoặt lịch sử  Việt Nam tháng Tư năm 1975.
Trầm luân trong khổ nạn ấy, nhà thơ luôn luôn sáng suốt nhìn lên phía trước với triết lý lạc quan về quy luật cuộc sống con người – Cõi người đáng yêu và đáng sống, đáng tin, đẹp tựa đời kiếp ngắn ngủi của bông hoa:
           
Con Loan con Phụng bay đâu lạc
Đến nỗi nào sao chẳng gọi bầy
Nếu như hoa biết chiều nay rụng
Âu cũng vui mà nở sáng nay.
    (Thắp Tạ)

Thơ Tô Thùy Yên, ở khía cạnh khác, mang tính thẩm mỹ vốn có của ngôn ngữ. Ông khắc chạm bức tranh chiều lung linh xao động qua những từ “gom gọn”, “sóng ngất”, “bạc nhòa”, pha trộn gam màu, phản chiếu trạng thái đơn độc giữa thung lũng hoang vu, nơi chôn chặt thân xác khổ sai lao động trên đất Bắc.
Cuộc vong thân, chỉ trông cậy, cầu may khi cất lên tiếng hú, để ai đó, đồng hội, đồng cảnh và đồng hành chia sẻ tín hiệu gửi trao:
            Lũng sâu gom gọn nắng tà
            Dải lau sóng ngất bạc nhòa cuối mây
            Biết còn ai đợi ai đây
            Hú lên một tiếng cầu may mới đành.
                     (Hái Rau)

Thơ Tô Thùy Yên từ đầu thập niên 60 đến nay vẫn nổi bật dáng đứng riêng biệt, đặc thù. Ông là một nhà thơ nghiêm cẩn trong sáng tạo, đã có những bứt phá để vươn tới cái mới của văn chương nghệ thuật. Thơ ông không chỉ riêng phần ngôn ngữ mà tứ thơ cũng dàn trải phóng đạt trên mặt rộng chữ nghĩa, ẩn chứa nhiều góc cạnh chiều sâu tư tưởng. Tác giả sở trường dùng phương thức ẩn dụ để phản ảnh hiện thực một cách tinh vi nhuần nhị với âm điệu hài hòa truyền cảm. Đi vào toàn bộ tác phẩm thơ Tô Thùy Yên, thật tình khó có thể có một một kết luận nào khác hơn, đó là một pho chữ nghĩa lấp lánh những hạt trân châu trong dòng thơ Việt hiện nay. Và từ đây, một lần nữa khẳng định chỗ đứng của Tô Thùy Yên trong kho tàng Văn Học Việt Nam.

THẮP TẠ

Tặng Huỳnh Diệu Bích

Một mình nàng lên núi chan chứa
Hỏi tìm cho gặp đá tiên tri
Về sau, đời có ra sao nữa
Cũng đã đành tâm sẵn một bề

Đá, chẳng đá nào lên tiếng với...
Nàng đi thôi đã nát chân hồng
Nghe con vượn ẩn thân khóc hối
Một lần lỡ bỏ chuyến lìa non

Một mai nàng vô rừng u ẩn
Nhặt trái nưa về nhuộm dạ sầu
Thấy trăm họ cỏ cây chen quấn
Nương náu nhau mà tội nợ nhau

Con loan, con phượng bay đâu lạc
Đến nỗi nào, sao chẳng gọi bầy?
Nếu như hoa biết chiều nay rụng
Âu cũng vui mà nở sáng nay

Một mai nàng qua cầu cam mặc
Mưa nắng gì thôi cũng một thì...
Rau hạnh, rau vi từ lúc có
Chưa từng nguôi biếc bãi Kinh Thi

Cửa đẩy lầm, vô lường cuộc diện...
Ba ngàn thế giới đã nhà chưa?
Lâu ngày, thân thế rách như gió
Thấy lại mình như kẻ đáng ngờ...

Một mai nàng đến thành hoa gấm
Hát một chiều, tiền thưởng ngập chân
Vui nốn náo trời, thốc tới biển
Một lần, thử đổi bỏ chân thân

Gà nửakhuya gáy xộ trăng muộn
Ai hồ nghi lộn kiếp bên này?
Con chó khóc tru ngoài địa giới
Ngờ ngợ người góc biển chân mây

Một mai nàng ra bãi vô định
Nhìn sông đổi lòng, nhìn núi chuyển chân
Mây bay bay như những vẫy biệt
Nàng đứng cho tàn như một nén nhang

Thắp tạ càn khôn một vô ích
Thắp tạ nhân quần một luyến thương
Biển Đông đã một ngày xe cát...
Đắm giạt, mơ lai kiếp dã tràng

tô thùy yên

NHỚ CÓ LẦN
TRÊN BẾN BẮC KHUYA
NGHE MỘT ÔNG LÃO ĐÀN HÁT

Ông lão khô quắt như thanh đước,
Đàn hát mưu sinh bến bắc đêm,
Cổ vương oan khuất, tay u hồn,
Miết giây, xé giọng, khóc nhân thế...
Âm bóng xưa về quanh chiếu manh.
Trăng thiếp, sao mê, sông ráo gió.
Buồn như sóng nói, tản không tan.
Tiếng lân, tiếng hạc, nỗi trong đục,
Cổ bản đưa: Từ phu tướng đi...
Mòn mỏi, thành Nam, nghĩa sĩ tận.
Kèn chiều mấy tiếng lạc trời quê.
Pháp trường úng máu, khí xung uất,
Ngần ấy năm còn nghe rợn thiêng.
Biệt đảo, mùa mùa gió chướng nổi,
Bè thả về không tới đất liền.
Bao phen nước cũ thay danh hiệu
Mưa nắng bay lần hơi hướm quen. 

LƯU DÂN THI THOẠI 145
Trăng chết đồng xa, buổi mạt pháp,
Áo đạo chìm cây cỏ cấm sơn.
Làng đã cháy, im lìm bất trắc...
Người nhớ người mà cũng sợ người.
Trời ơi, những xác thây la liệt,
Con ai , chồng ai, anh em ai?
Mùa nước nổi qua mùa nước giựt,
Đốt tay nào Thân Dậu niên lai?
Em về giồng dưới, qua bưng gió,
            Mắt có nhòa triều bông sậy dây
Người còn, trời đất còn chan chứa.
Ghe thương hồ khẳm điệu huê tình,
Sông bảy ngã, thương, còn gặp lại,
Muối mặn, gừng cay, trắng tóc xanh...
Chỉ cho con chỗ doi xưa sụp.
Cồn mới thành, con tự nhận ra.
Nước chảy, đừng chờ khi xế bóng,
Hối không làm việc nghĩa trôi qua.
Ông lão khô quắt như thanh đước,
Cổ vương oan khuất, tay u hồn...
Tình ý theo người đi một đỗi,
Một đỗi, dài hơn bốn chục năm.

11-1999

Xem tiếp Kỳ 2
            

No comments:

Post a Comment

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...