SONG NHỊ
Khởi đi từ
một tình cờ lịch sử khi Alexander de Rhodes đến Việt Nam
truyền đạo Thiên Chúa, ngôn ngữ Việt Nam thoát khỏi văn hóa chữ Nho (Hán
tự) và chữ Nôm, bước sang một kỷ nguyên mới kể từ đầu thế kỷ Hai mươi. Trong
suốt 500 năm từ tình trạng phôi thai, theo bước đi của từng thế hệ và từng thời
kỳ lịch sử, chữ Việt và tiếng Việt ngày nay đã là một trong những ngôn ngữ hoàn
chỉnh trong lịch sử văn minh nhân loại. Người Nhật và ngươi Nam Triều Tiên cũng
từ hàng trăm năm cố công thoát ly ảnh hưởng và phụ thuộc chữ Hán nhưng đã không
làm được.
Tuy nhiên,
không phải vì vậy mà người Việt chúng ta đã bằng lòng với thành tựu đó. Cả trăm
năm nay vẫn có những người bằng sáng kiến, nhận định của mình đã đưa ra những
đổi mới, “điều chỉnh” cách viết chữ Việt. Có thể kể từ thế kỷ 19 với học giả
Huỳnh Tịnh Của (1734 – 1907) khi ông hoán đổi (y thành i) qua cách viết tên
mình (Huỳnh thành Huình). Tiếp đến là Nguiễn Ngu Í (Nguyễn Ngu Ý - 1921 - 1979) nhà thơ, nhà
giáo, nhà báo, thế kỷ 20.
Từ hai nhân
sĩ này, hai mẫu tự I và Y đã trở thành “chuyện dài Y dài I ngắn”, thỉnh thoảng
được nhắc đi nhắc lại suốt cả trăm năm nay....
Chỉ mới
đây, chúng tôi nhận được bài viết VẤN ĐỀ MẪU TỰ Y (Y DÀI) của một tác giả ký
tên Người Thơ gửi cho tạp chí Nguồn. Bài viết khá công phu, đang được gác lại
và đó cũng là nguồn cảm hứng để chúng tôi góp lời bàn thảo về đề tài này.
Trước khi
tham gia ý kiến câu chuyện dài “y dài i ngắn”, người viết xin được ôn lại bài
học vỡ lòng từ thời mới biết đánh vần chữ Việt a b c ....
Chúng ta,
ai cũng biết chữ Việt ngày nay xuất xứ từ chữ La tinh, do khởi xướng và ghép
đặt của giáo sĩ Thiên Chúa giáo Francisco de Pina (1585-1625), tiếp theo là
công trình hệ thống hóa của giáo sĩ Alexander de Rhodes với mục đích để truyền
đạo. Chữ Việt hình thành từ một tình cờ lịch sử như thế, cho nên không ít người
cho rằng chẳng có ai có công mà cũng chẳng có ai có tội.
Và chúng ta
ai cũng biết chữ La tinh có các mẫu tự sau đây:
A b c d e f
g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z trong đó có 5 Nguyên âm là a e i o u y.
Khi các nhà
ngôn ngữ học (F. de Pina và A. de Rodes) đầu tiên lấy chữ La tinh sáng chế ra
tiếng Việt thì họ đã thêm và bớt một số chữ cái (cả nguyên âm và phụ âm).
Tiếng Việt
từ đầu gồm có 23 chữ cái: a b c d đ e g h i k l m n o p q r s t u v x y, trong
đó có 6 nguyên âm: a e i o u y.
Để đáp ứng
thanh âm đa dạng trong tiếng Việt, các nguyên âm a e o u biến thể thêm các
nguyên âm: a > ă, â; e > ê; o > ô, ơ; u > ư.
Từ các
nguyên âm đơn, để thích ứng với thanh âm phong phú trong tiếng Việt chúng ta có
các cặp nguyên âm kép như sau: ai ao
au ay âu ây ; eo, êu ; ia, iê, iu ; oa, oe, oi ôi, ơi, ơu; ua, uê, ui , uơ, uy
, uyê ; ưa, ưi, ưu, ươ ; yê. Đây là những cặp thanh âm kép bất khả phân ly để
đi với các phụ âm nhằm tạo từ ghép chữ.
Trước khi
bàn tiếp tưởng cũng nên nhắc lại định nghĩa nguyên âm (vowel) là gì và phụ âm
(consonant) là gì ? Trong quyển “Đại Từ điển Tiếng Việt”, (NXB Văn Hóa Thông
tin, 1998, tr.1217) định nghĩa nguyên âm là “âm mà khi phát âm, luồng hơi từ
phổi ra không gặp phải trở ngại, phân biệt với phụ âm”.
Chúng tôi
thấy rằng ở đây là một giải thích về hiện tượng (chưa chắc đã đúng), chứ không
phải là một định nghĩa, và khi người ta thử nghiệm phát âm chữ a (nguyên âm) và
chữ k (phụ âm) thì cả hai phát âm, “luồng hơi từ phổi ra” đều không “gặp trở
ngại” gì cả.
Theo chúng
tôi, một định nghĩa về nguyên âm và phụ âm có thể chấp nhận được, theo đó: - nguyên âm là một chữ cái có thể đứng một
mình, để xướng lên một từ trọn nghĩa mà không cần ghép với một chữ cái nào khác
(NV nhấn mạnh).
Ví dụ: a
dua, o bế, ê chề, y phục; Ngược lại, ta không thể nói lập l (lập lờ), con d (con
dê), ca h (ca hát) v.v.
- phụ âm là một chữ được dùng để đi
kèm với những nguyên âm và phụ âm khác để cấu tạo thành một từ, một chữ.. Thí dụ: lập lờ, con dê, o bế, ca
hát v.v..
Từ những
dẫn chứng trên đây, chúng ta thấy rằng Y (dài) và I (ngắn) có một quy tắc nhất
định trong tiếng Việt. Ngay cả trong Anh ngữ: cũng có một nhận định chung
quyết, theo đó chữ Y có thể được xem vừa là một nguyên âm, vừa là một phụ âm.
(The letter Y can be regarded as both a vowel and a consonant). Và qua tham
chiếu của tác giả Thanh Thanh (*), câu trả lời Y chỉ là một từ thường được dùng
cho cả nguyên âm và phụ âm trong Anh ngữ (The answer to the question is that Y
is the only letter commonly used as both vowel and consonant in English).
Tham chiếu
này còn ghi thêm: The letter Y stands for a consonant in "yoke" but
for a vowel in "myth." chữ cái Y đứng trong “yoke” là phụ âm, nhưng
chữ Y trong “myth” là nguyên âm.
Đối chiếu
với kết luận trên đây về Y và I trong Anh ngữ thì trong Việt ngữ Y được coi là
phụ âm trong các từ yểm (trợ), (yên) ổn, yêu (thương), yết (kiến) ... Tuy nhiên, đúng ra yê lại là một nguyên âm cặp đi với các phụ âm m, n, u, t để tạo chữ
yểm, yên, yêu, yết. Vậy có thể kết luận
Y và I là hai nguyên âm tuyệt đối trong Việt ngữ.
Các nhà
ngôn ngữ học đầu tiên kiến tạo bộ chữ Việt bằng mẫu tự La tinh đã rất chú trọng
đến những âm cặp khi biên soạn bài học vỡ lòng đánh vần chữ Việt, bắt buộc học
thuộc lòng 23 chữ cái: a b c d đ e g h i k l m n o p q r s t u v x y; Và a ă
â e ê i o ô ơ u ư.
Cùng các
vần ghép (nguyên âm kép): ai ao au ay,
ây, eo êu, iu, oi, ôi ơi, ơu, ui, uy, ưu,
Và với các
phụ âm: ac, ăc âc, am ăm âm, an, ăn ân,
ap ăp âp, at ăt ât, v.v...
Ghép vần
chữ B: Ba bă bâ be bê bi bo bô bơ bu bư.
đến vần chữ
C thì ca că câ > ke kê ki > co cô cơ cu cư.
- kha khă
khâ khe khê khi kho khô khơ khu khư
Vần chữ G
thì ga, gă gâ > ghe ghê ghi > go gô gơ gu gư.
Trong các
cặp nguyên âm kép dẫn đầu bài, hai cặp ui và uy ngay từ đầu đã có chỗ đứng
riêng rẽ, độc lập của nó, i (ngắn) không thể thay cho y (dài) và ngược lại. U+I
đọc là ui và U+Y đọc uy. Căn bản của nguyên-âm-cặp này hai chữ cái là một, là
ui và uy, chỉ cần ghép với các phụ âm khác là có thể tạo thành những từ vựng,
ví dụ: lui cui, thui thủi, túy lúy, quỵ
lụy.... uy tín, hiu hắt huy hoàng, biên thùy, thâm thúy, quý vị v.v..
Các nguyên
âm cặp:
Uy + phụ âm
> huynh, quỳnh, huỳnh, huỵch (toẹt)..
Uyê + phụ
âm > uyên, huyên, quyết
Uya + phụ
âm > khuya, phẹc-ma-tuya (zipper)
Uya, uây,
uyê, iêu, oai, uôi, ươi, ươu là những nguyên âm cặp bất khả phân ly, nó như là
một nguyên âm đơn, đi theo các phụ âm tạo thành từ ngữ: khuây nguôi, trái
khuấy, quây quần, quan liêu, khoái lạc, xuôi dòng, tươi tốt, hươu nai v.v..
I (ngắn) hay Y (dài) khi đứng cuối
chữ:
I và Y là
nguyên âm nên khi nó đứng cuối chữ thì y (dài) hay i (ngắn) đều có thể chấp
nhận. Người ta khi đọc thấy các chữ lí luận, kĩ thuật, nước Mĩ, Hoa Kì.... khác
với lối viết “truyền thống” lý luận, kỹ thuật, nước Mỹ, Hoa Kỳ thì vội cho là
chữ y (dài) đã bị thay thế bởi chữ i (ngắn). Thật ra y hay i trong trường hợp
này đều có cùng giá trị, chỉ khác là do cảm quan của người đọc không quen với i
hoặc y mà thôi.
Về phương
diện mỹ quan và thói quen viết Y (dài) trong các từ địa lý, kỹ thuật, Hoa Kỳ,
kỷ niệm, Ký tên... theo chúng tôi nên giữ cách viết “truyền thống”, thay vì
dùng i (ngắn). Có những từ y (dài) và i (ngắn) đã có vị trí cố định. Chẳng hạn
những từ sau đây chưa hề thấy hoán vị
giữa y và i : thí dụ, bí thư, hoan hỉ, suy nghĩ, sinh khí, nhà in, y phục , y
tế, ý niệm.. Chưa có chữ viết: thý dụ, bý thư, suy nghỹ, sinh khý, nhà yn, i
phục, i tế, í niệm v.v..
Trong câu
dân ca: Yêu nhau cởi áo... í.. a cho nhau/ Về nhà mẹ hỏi qua cầu... í.. a gió
bay. Chưa thấy ai viết ý... a thay cho í... a. Và Ký tên luôn luôn là... ký
tên, không ai viết Kí tên.
Các trường
hợp khác Y và I đã có phần vụ (function) riêng của nó cho nên, bất khả hoán vị,
không thể lấy i thay cho y như trường hợp học giả Huình Tịnh Của và nhà thơ
Nguiễn Ngu Í. Theo chúng tôi thì hai nhân sĩ này khi dùng chữ I viết tên mình
chỉ là một cách chơi, nếu không muốn nói là lập dị, chứ không có chủ đích đề
xướng một khuynh hướng. Vì vậy đã mấy trăm năm chưa có một Nguiễn Thuiến
(Nguyễn Thuyến) hay một Nguiễn thị Bạch Tuiết (Tuyết) nào khác.
Sau khi tìm
hiểu và truy nguyên, chúng tôi mạnh dạn phổ biến biên khảo ngắn này. Mong được
sự góp ý và bổ khuyết của các bậc thức giả.
Song Nhị
/ 12. 2015.