CUNG THỊ LAN
Sinh quán tại Nha Trang, Việt Nam
Cựu học sinh trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang (1968-
1975)
Cựu Sinh Viên trường Cao đẳng Sư Phạm Nha Trang (1975-1976)
Cựu giáo viên, trưởng Hướng đạo, và cán sự Xã hội
Tốt nghiệp Cử nhân Giáo dục Trẻ Em (B.A. Early Childhood
Education) năm 2004 tại University of the District of Columbia (UDC)
Tốt nghiệp Thạc sĩ Giáo dục Trẻ Em Khuyết Tật (Master in
Special Education) năm 2010 tại George Mason University (GMU)
Hiện làm việc cho Ban Phục Vụ Giáo Dưỡng Trẻ Em thuộc Bộ Xã
Hội tại Hoa Thịnh Đốn.
Cư ngụ tại Maryland, USA
Tác phẩm đã xuất bản:
Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm (2004)
Hai Chị Em (2005)
Tình Trên Đỉnh Sầu (2006)
Khoảng Cách của Biệt Ly (2009)
Unforgettable Kindness
(2011)
***
Tâm Sự Của
Một Người Viết
Một người đàn ông đứng tuổi tâm sự với tôi rằng người vợ đầu
của ông và ông ly dị vì sự phá rối của người chị ruột của ông. Cũng bởi người
chị ruột của ông nói xấu vợ ông với ba mẹ ông mà tình cảm của vợ ông với gia
đình ông và tình cảm của riêng họ sứt mẻ dần. Họ đã bất hòa, cãi vả với nhau
rất nhiều lần cho đến khi quyết định chia tay. Ông nói rằng sau khi ly dị, ông
nhận rõ sự mâu thuẫn giữa chị dâu em chồng là nguyên nhân của sự đổ vỡ hạnh
phúc gia đình ông, nhưng ông không hề thố lộ chuyện này với ai. Ông còn nói
rằng ông không hề trách móc chị ruột của ông bởi vì ông quan niệm vợ thì ông có
thể kiếm được người khác nhưng chị em ruột hay cha mẹ ruột thì ông chỉ có một.
Ông chứng minh rằng ông đang có đời sống êm đềm, hạnh phúc với người vợ thứ hai
của ông trong lúc vẫn còn mối quan hệ bạn bè thường tình với người vợ đầu tiên,
người đàn bà sau khi ly dị cho đến nay vẫn còn độc thân.
***
Tôi bàng hoàng khi nghe câu chuyện kể vì điều ông thố lộ
hoàn toàn trái ngược với điều ông nói với tôi sau khi coi cuốn sách Hai Chị Em
của tôi. Lúc đó, ông nói với tôi rằng ông chưa bao giờ thấy một người em chồng
nào đối với chị dâu như tôi tả. Chau mày nghĩ ngợi nhưng tôi đã điềm tĩnh nói
với ông rằng: “Cháu hiểu bác tiết lộ chuyện như thế này với cháu hôm nay do một
sự tình cờ chớ không ai muốn kể chuyện như vậy với người không phải trong gia
đình. Nếu bác ghi lại những điều bác vừa kể với cháu với những chi tiết rõ ràng
để chia xẻ những kinh nghiệm mà bác trải qua với người khác thì người đọc
truyện của bác sẽ gọi bác là nhà văn. Khi bác dùng bút pháp đặc biệt làm rõ mục
đích câu chuyện và người đọc học hỏi được những điều bác nhắn gởi trong truyện
thì người ta sẽ gọi bác là nhà văn có tài... nhưng cháu biết bác sẽ không viết
ra những điều bác vừa mới tâm sự với cháu bởi vì bác muốn bảo vệ danh dự gia
đình của bác. Giống như bao người khác, họ có biết bao chuyện éo le, ngang trái
và bi thảm nhưng họ không bao giờ chia xẻ cùng ai cũng chỉ vì muốn bảo vệ danh
dự của chính họ hay những người thân của họ.”
Ông cười và nói rằng tôi thông minh, lý luận rất đúng. Còn
tôi, tôi đã kết thúc cuộc đối thoại bằng đề tài khác vì tôi không muốn nói thêm
những gì mình đang nghĩ quanh chuyện viết của tôi và những vấn đề liên quan. Đó
là chuyện bất ngờ ngoài dự định, sở thích không mục đích, và những vui buồn khi
tôi trở thành một người viết thực thụ. Những điều mà tôi tâm sự trong những
giòng chữ sau đây.
Tôi đã không hề thích làm văn sĩ ngay từ khi tôi bắt đầu
viết những bài tập làm văn trong thời tiểu học. Từ những bài tập làm văn trong
năm học lớp Ba như tả cái cặp, con chó,
cây chuối, cây dừa, và “mẹ của em”, tôi cảm thấy viết là một sự gò bò, khuôn
khổ và mẫu mực. Bài nào cũng loanh quanh trong phạm vi mở bài, thân bài và kết
luận. Bài nào cũng tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ ngoại diện đến phẩm
chất, từ các xấu đến cái tốt, cái tiêu cực đến tích cực và bài học lợi ích.Vượt
qua sự nhàm chán, tôi đã thử phóng viết tự do theo ý mình trong thời gian học
trung học. Kết quả là mỗi khi nhận bài trả từ các giáo sư Việt Văn, tôi luôn có
một câu phê giống y nhau rằng: “Câu văn dài dòng, luộm thuộm!”
Biết làm sao hơn khi
tôi không hề thích lối viết ngắn ngủn. Tôi thường có cảm tưởng những dấu phẩy
và những dấu chấm là sự nhát gừng của người ngần ngừ không muốn trả lời hay
không muốn nói một cách suôn sẻ và mạch lạc. Lúc đó, tôi đã tự bảo vệ mình bằng
cách không viết ra giấy mà chỉ viết trong đầu. Nếu viết ra giấy thì chỉ là
những tờ giấy trong nhật ký chứ tôi không bao giờ nghĩ mình gửi bài cho bất kỳ
Bích Báo hay Đặc San nào. Tôi sợ rằng sau khi đọc thơ văn của tôi, độc giả trở
thành nhiều giáo sư Việt Văn với nhiều câu phê bình mà tôi từng có: “Văn dài
dòng và luộm thuộm.”
Tôi không muốn trở thành văn sĩ/nhà văn còn bởi vì tôi thấy
đời sống của nhà văn/văn sĩ thường bị tò mò và xoi mói bởi những người xung
quanh. Đời sống họ không còn được tự nhiên nếu không nói là tội nghiệp. Nhất cử
nhất động của họ đều bị theo dõi và phê bình. Tôi tự nghĩ tại sao phải đem cái
khổ vào thân như vậy? Làm người bình thường, không viết văn, không làm thơ,
không gửi bài, không ai biết đến tên tuổi thì đâu phải bị dòm ngó? Đâu phải giữ
kẽ, e dè? Hơn nữa làm văn sĩ hay thi sĩ thì có được lợi lộc gì mà cứ phải viết
cặm cụi như làm các bài luận văn rồi chờ các giáo sư Việt Văn “không lương”phê
bình? Những người bạn trong lớp C (Ban Văn Chương thời trước năm 1975) chê tôi
khùng điên khi nghe những câu hỏi ngớ ngẩn này của tôi. Họ nói thơ văn tô điểm
thêm cuộc đời thơ mộng, ghi dấu những kỷ niệm đẹp thời học sinh và làm tươi mát
cuộc đời của con người. Hơn thế nữa, khi văn chương lên đến tuyệt đỉnh, văn sĩ,
thi sĩ nổi tiếng sẽ được trọng vọng, và tên tuổi của những người này sẽ được
lưu danh đến ngàn đời, sao lại nói không thích?
Nghe lời bạn bè, mặc dù chưa thực sự viết thơ văn chuẩn mực,
chưa có thơ văn để gửi cho tòa soạn nào và cũng chưa được nhà xuất bản nào phát
hành sách, tôi đã tưởng tượng mình là nhà văn nổi tiếng, và mơ mộng về những
thành công của nhà văn nổi tiếng. Thế nhưng, sau một hồi tưởng tượng và mơ
mộng, tôi đã khư khư với ý nghĩ ban đầu là không bao giờ thích làm văn sĩ hay
thi sĩ.
Nguyên do từ những câu trả lời cho những câu hỏi mà tôi tự
đặt cho tôi. Nếu khi còn nhỏ tí teo, tôi hỏi mẹ
tôi rằng “Má ơi, ai sinh ra má
vậy?” ,“Là bà ngoại con chớ ai!” ,“ Ai sinh bà ngoại vậy má?”, “Là bà cố!”, “ Ai sinh bà cố vậy má?”,
“Là bà sơ!”, “Ai sinh bà sơ vậy má?”, “Là bà sít!”, “Ai sinh bà sít vậy má?” “ Là bà... mà mày hỏi làm gì hỏi hoài
vậy?”, “Dạ con muốn biết ai là người đầu tiên trên trái đất này sinh ra má con
mình thôi đó mà!” ....thì lúc bấy giờ, tôi tự hỏi rằng “Nếu mình là nhà văn và
được nổi tiếng thì sao?”, “Thì mọi người sẽ đọc hết tất cả sách của mình và
biết tên mình chớ sao!”, “Nhiều người biết tên mình, thì sao?”, “Thì khi mình
chết, tên mình vẫn còn sống bởi những người còn sống đang đọc sách mình chớ
sao!”, “Những người còn sống đọc sách mình, nhắc nhở tên mình rồi sao nữa?”,
“Rồi những người đọc sách mình hết còn nhắc nhở tên mình vì họ sẽ chết nhưng họ sẽ lưu sách của mình lại
cho con họ đọc!”, “Rồi con của những người đọc sách mình chết nữa thì sao?”,
“Thì con của con của những người đọc sách mình chết đó đọc!”, “Rồi con của con
của những người đọc sách mình chết, nghĩa là cháu của những người đọc sách mình
chết, chết nữa thì sao ?”, “Thì chắt của những người đọc sách mình chết đọc!”,
“Rồi chắt của những người đọc sách mình chết, chết nữa thì sao?”, “Thì chít của
những người đọc sách mình chết đọc!”, “Rồi chít của những người đọc sách mình chết,
chết nữa thì sao?”, “Thì chút của những người đọc sách mình chết đó đọc!”, “Rồi
hết thảy con, cháu, chắt, chít, chút của những người đọc sách của mình chết,
chết hết thì sao?”, “Thì không ai biết tên mình cả!”, “ Như vậy có nghĩa là làm
nhà văn hay nhà văn nổi tiếng hay không nổi tiếng cũng chỉ là hư danh mà thôi!
Có khi đến đời con của người mê đọc sách của nhà văn nổi tiếng không muốn đọc
sách của nhà văn nổi tiếng cùng thời với cha mẹ họ, thì sự lưu danh sẽ bị cắt
đứt một cách ngọt xớt.... thế thì tại sao mình phải khổ cực viết sách để làm
nhà văn làm gì?” Với lý luận như vậy mà tôi không hề viết bài, và gửi bài cho
các bích báo của lớp của trường chớ đừng nói chi đến việc tơ tưởng đến các danh
xưng văn sĩ hay nhà văn.
Mặc dù tôi chưa bao giờ nghĩ, chưa bao giờ mơ mình sẽ trở
thành nhà văn, văn sĩ hay thi sĩ nhưng tôi thích viết. Tôi đã viết hàng ngày
trong đầu mình và ghi lại những gì xảy ra trong trí mình những sự việc đáng nhớ
và cảm nghĩ của mình trước những sự việc xảy ra quanh tôi. Tôi thường xuyên tâm
tình với ý nghĩ của mình và ghi lại những gì xảy ra trong nhật ký của tôi. Tôi
đã giấu kỹ những cuốn nhật ký ấy, nhưng có lúc lại muốn chia xẻ ý nghĩ của mình
với những người quanh tôi. Tôi nghĩ giá như tôi mạnh dạn cho mọi người biết
những ý nghĩ thật của mình, biết những gì mình đã trải qua, biết đâu tôi chia
xẻ kinh nghiệm của mình cho người có cùng tình trạng để họ phản ứng hay hơn
tôi, hạn chế những thiệt thòi mà tôi mắc phải đồng thời có được đời sống tốt
đẹp hơn đời sống của tôi.
Bản thân tôi cũng đã học nhiều kinh nghiệm từ những gì ghi
trong sách vở. Đó là những người bạn tốt giúp tôi mở mang kiến thức và cho tôi
nhiều bài học bổ ích trong việc hiểu biết hoàn cảnh khác biệt của mọi người,
thông cảm và tôn trọng sự khác biệt ấy. Tôi đã ứng dụng những kiến thức trong
sách vở vào đời sống hàng ngày của mình và nghiệm ra rằng cuộc sống của mình
thành công là do ứng phó với những nghịch cảnh xung quanh mình. Từ kinh nghiệm
này, tôi muốn lưu lại những gì tôi đã trải qua cho người đọc, mà người gần nhất
là các em Hướng Đạo. Tôi đã thực hiện dự định của mình bằng lối viết đơn giản,
dễ hiểu và đúng với trình độ đọc tiếng Việt của các em. Tôi muốn biến những
cuốn sách của mình là hành trang trong cuộc sống của các em nhưng tôi đã ngần
ngừ chuyện phát hành bởi vì tôi hình dung được cảm giác mất mát của mình khi
phải tung ra những chuyện tôi giấu kín hàng bao năm trời.
Là người yêu bí mật, tôi không muốn ai biết những gì mình
đang giấu kín. Viết về một mối tình câm, về một cuộc tình đuổi bắt, một sự
hoang tàn, một sự tuyệt vọng, một cuộc sống nghèo hèn, sự đối xử không công
bằng trong gia đình là niềm đau xót khôn nguôi. Làm sao có thể giải thích cho
những người đọc hiểu được tâm trạng của người viết đang trang trải những niềm
đau xót trên những trang giấy bằng những giọt nước mắt hơn là mực viết. Làm sao
có thể cho mọi người hiểu được sự thố lộ những gì có tính cách riêng tư là sự
bày tỏ chứ không phải là sự đánh đổi hai chữ nhà văn.
Tuy nhiên, sự ra đời nào cũng do số phận và sự an bài của
thượng đế. Những bản thảo như những cuốn nhật ký nằm im trong tủ ngỡ sẽ ra đời
bất ngờ khi chủ nhân của chúng đi vào chốn vĩnh hằng. Ngờ đâu, chúng đã xuất
hiện một cách vội vã. Nguyên nhân vì em gái ruột của tôi, người mà tôi nghĩ sẽ
là người đầu tiên bất ngờ đọc những điều bí mật sau khi tôi không còn trên cõi
đời, bị chứng bệnh hẹp cơ tủy xương cổ. Tình trạng sức khỏe nguy kịch của em
gái tôi khiến tôi quyết định phát hành cuốn sách đầu tiên của mình. Việc phát
hành không có một sự thuận lợi nào khi tôi đang ở trong tình trạng thất nghiệp
và không hề quen biết một nhà văn, nhà thơ hay một nhà xuất bản nào ở Hải
Ngoại. Có lẽ kỳ vọng và tin tưởng khả năng của tôi, một họa sĩ trong nước - tại
Việt Nam, đề nghị sẽ giúp đỡ tôi trong việc phát hành sách. Ngoài chuyện vẽ
hình bìa ông còn hết lòng giúp tôi làm người đại diện ký giao kèo với một nhà
xuất bản có uy tín trong nước. Ông nói rằng nhà xuất bản này đã xuất bản rất
nhiều sách của miền Nam Việt Nam trước năm 1975 ngay cả những chuyện kiếm hiệp
của Kim Dung. Tôi vui vẻ ưng thuận với tâm trạng tin tưởng tuyệt đối vào sự cởi
mở và đổi mới trong nước.
Việc xuất bản cuốn sách đầu tiên tưởng sẽ được tiến hành
thuận lợi, người đại diện ký giao kèo cho tôi biết là nhà Thông Tin Văn Hóa,
nơi kiểm duyệt các tác phẩm văn chương trong nước, yêu cầu tôi đổi hai chữ Việt
Cộng bằng ba chữ Giải Phóng Quân thì cuốn sách “Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm” của
tôi mới có thể được ấn hành trong nước. Nghe xong những lời này, tôi đã tức tốc
yêu cầu người đại diện xóa bỏ hợp đồng với nhà xuất bản mà ông ta đã ký. Tôi
nói rằng những gì tôi ghi lại là những gì tôi chứng kiến khi Việt Cộng tấn công
Nha Trang vào năm 1975 chớ tôi không hề biết chữ giải phóng quân là gì. Trong
tâm trạng bàng hoàng, tôi cho ông biết rằng tôi không ngờ có sự thỏa hiệp kỳ lạ
giữa nhà xuất bản và bộ phận kiểm duyệt văn hóa thông tin như thế, rồi tôi
khẳng định rằng tôi sẽ không bao giờ đổi trắng thành đen. Đến lúc đó, tôi nhận
rõ vai trò quan trọng của người viết trong sự bảo vệ tính trung thực và cũng từ
lúc đó tôi không còn có ý nghĩ sẽ giao kèo với bất cứ nhà xuất bản nào trong
nước. Để bảo vệ tính trung thực tác phẩm của mình, tôi đã tự phát hành, và phát
hành vội vã đến độ không kịp biên tập.
Những quyển sách của tôi ra đời một cách rất đột ngột nhưng
tôi đã cố gắng hết mức trong vai trò của người tự xuất bản. Tôi đã cố gắng
chuyển đến tay người đọc sớm chừng nào hay chừng nấy vì ngại rằng sẽ có những
cuốn sách với tên mình, với những sự việc xảy ra cho mình bằng những tên gọi
bịa đặt. Sự cố gắng của tôi nhằm để bảo vệ sự thật nhưng vì gấp rút, cuốn sách
đầu tay của tôi đã có khá nhiều lỗi chính tả. Bất kể nội dung cuốn sách trung
thực thể nào, khuyết điểm của phần hình thức khiến tôi không hề nghĩ cuốn sách
mình được độc giả chấp nhận là một tác phẩm chuẩn mực. Ngạc nhiên thay, tôi đã
được sự ủng hộ của rất nhiều độc giả; không những các em Hướng Đạo, mà còn là
những người có học vị khá cao, các phụ huynh, các trưởng Hướng Đạo, bạn bè và
người quen. Họ cho rằng “Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm” có giá trị như một tác
phẩm lịch sử bởi vì nó đã trung thực ghi lại những gì xảy ra trong những thời
gian trước và sau năm 1975.
Dù là người mới tập tễnh bước vào khu vườn văn chương, tôi
hình dung được những phản ứng khác nhau của người đọc đối với các tác phẩm của
mình. Tôi đón nhận những ý kiến khác nhau cho kinh nghiệm của mình, nhưng tôi
đã chán nản khi tôi thấy thái độ của những người nhạy cảm quá khích; hay những
lời phán đoán không chính xác về nội dung. Đó là những người chỉ đọc lướt qua
vài trang đầu, đọc sơ sài vài trang sách hay không hề đọc chữ nào trong những
cuốn sách của tôi. Trong khi tôi đang bỡ ngỡ trước những lời khen về trí nhớ
siêu việt, tính trung thực của ngòi viết của mình thì tôi thấm thía những phản
ứng của vài người bà con cho rằng tôi mạ lỵ danh giá của đại gia đình. Điều này
làm tôi cảm thấy nỗi đau của mình to lớn hơn khi thấy rõ tâm ý của một số
người.
Vì danh giá và danh dự, con người chỉ muốn che đậy những
điều tiêu cực, phủ nhận công lý để nuôi dưỡng những bất công tiếp tục diễn biến
từ đời này đến đời khác. Sự dửng dưng, lạnh lùng và giận hờn của một số người
làm tôi cảm thấy đau xót. Tôi làm sao có thể giải thích cho họ hiểu những
nghịch cảnh ghi ra trên giấy là niềm đau khôn nguôi của tôi. Những giòng chữ
trên những trang sách của tôi không phải chỉ bằng mực mà với rất nhiều nước
mắt. Tôi làm sao nói cho họ hiểu rằng những đứa bạn gần gũi với tôi vào thời
niên thiếu đã phán với tôi rằng: “Mày là con nhà văn nương tay!” Như vậy, phải
chăng viết sách đối với tôi không phải là phương sách chờ đợi một danh xưng, sự
giải tỏa hay xoa dịu. Viết sách đối với tôi cũng không phải là hình thức nhằm
phỉ báng, mạ lý hay bêu xấu cá nhân nào. Thời gian sẽ làm sáng tỏ rằng: Viết
sách đối với tôi là một hình thức nghệ thuật chuyển tải ý tưởng đến người đọc
trong tinh thần khách quan.
Có lúc, tôi nghĩ rằng người đàn ông có kinh nghiệm bản thân
về hậu quả của sự xích mích giữa chị em dâu với chị em chồng nhưng không ghi
lại những điều ông trải qua trong sách là người may mắn. Chữ may mắn có vẻ dị
hợm khi ông đã mất hạnh phúc gia đình, và con cái của ông đã phải sống trong
cảnh xa cha gần mẹ hay gần cha xa mẹ nhưng dù sao ông đã không bị mất tình cảm
của ba mẹ và các chị em gái của ông. Nhờ tâm huyết bảo vệ danh dự của gia đình,
mà ông không bị tẩy chay, biệt lập hay ruồng bỏ bởi những người thân trong đại
gia đình của ông. Tuy nhiên, nếu tất cả mọi người trên đời không hề đề cập đến
những tiêu cực của những sự việc quanh mình thì e rằng chúng ta khó lòng thấu
hiểu, thông cảm hay học tập kinh nghiệm trong thế giới không hoàn hảo của loài
người.
Với duyên nghiệp và sở thích, tôi đã tiếp tục viết cho dù
những tác phẩm của tôi đem đến cho tôi nhiều lời khen tiếng chê của độc giả.
Qua bình luận của nhiều người, tôi nhận thấy rằng hiếm có người đọc kỹ sách của
tôi. Có lẽ do thời gian hạn chế nơi xứ người, hiếm có người đọc sách kỹ như đã
từng. Ngoài ra, qua những lăng kính màu khác nhau, những lời khen ngợi hay phê
bình thường là kết quả từ các kinh nghiệm cá nhân hay môi trường cuộc sống mà
người đọc trải qua. Hiểu được điều đó, tôi đã không từ nan việc chờ đợi người
hiểu rõ điều tôi muốn nhắn nhủ trong những đứa con tinh thần của tôi.
Để tạo điều kiện cho độc giả trong nước đọc các tác phẩm của
mình, tôi đã gửi chúng vào trang Việt Nam Thư Quán. Dù không được hoa lợi trong
việc viết lách nhưng tôi đã được những lời góp ý và bàn luận chân thật của
những độc giả sau khi đọc các tác phẩm của tôi. Đã có nhiều lời góp ý của độc
giả trong nước làm tôi rất cảm động. Thương cảm nhất là khi tôi đọc lời bàn bạc
trong phần góp ý của độc giả, rằng “Dù được các tác giả ở Hải Ngoại cho coi
sách miễn phí trên mạng nhưng em cũng phải trả tiền giờ cho các dịch vụ vi
tính.” Với câu nói này thì lợi nhuận có đáng là bao?
Các tác phẩm của tôi đã giúp tôi ngày càng gặp lại nhiều
người thân quen. Sự quảng bá những tác phẩm viết trên hệ thống toàn cầu đã giúp
tôi tìm lại nhiều người thân mất liên lạc hàng chục năm. Qua họ, tôi biết được
nhiều tờ báo đã lấy và trích đoạn một số bài viết của tôi đăng trên mạng. Điều
đó không hề hấn gì bởi vì có nhiều người đọc hết sách tôi trên các trang mạng
vẫn ưu ái mua sách ủng hộ tôi. Điều quan trọng là những người thân quen của tôi
đều nói rằng họ đã xúc động khi đọc các bài viết của tôi vì họ tìm thấy sự hiện diện của họ trong đó.
Quan trọng hơn nữa là có lần một độc giả ở California gọi điện cho tôi và thố lộ rằng:
“Chị ơi, em cảm ơn cuốn “Hai Chị Em” của chị. Nhờ cuốn sách này mà đứa con gái
em gần gũi em hơn đứa con trai đầu của em. Phải chi em được đọc sớm hơn câu:
“Buồn thay, mẹ nó vì quá lo lắng cho kế sinh nhai mà chẳng bao giờ để ý đến
niềm ao ước nhỏ nhoi của chị em nó. Trong niềm ao ước nhỏ nhoi ấy, chỉ được mẹ
dẫn đi bộ đến biển chơi cũng sẽ là hạnh phúc tuyệt đỉnh của chúng rồi…'’ đọc
xong em áp dụng cách gần gũi con, chớ không bỏ bê nó mà lo kinh doanh như
trước. Phải chi em có cuốn sách này sớm hơn thì em đã không bị đứa con trai em
lợt lạt như bây giờ đâu chị!”
Chỉ có vậy! Cuối cùng tôi đã tìm được người nhận được thông
điệp của mình. Thông điệp này không những cho độc giả của tôi mà còn chính cho
tôi, người viết.
Với những lời tâm sự trên đây của tôi, tôi hy vọng bạn sẽ
viết ra những thông điệp bạn muốn gửi cho người đọc. Mỗi người trong chúng ta
đều có những kinh nghiệm khác nhau. Kinh nghiệm san sẻ của bạn sẽ cho người đọc
bài học ý nghĩa. Cứ thế, chúng ta sẽ cùng chuyền cho nhau những kinh nghiệm
khác nhau để cùng xây dựng một cuộc sống hoàn thiện hơn. Nếu bạn chưa từng
viết, hãy viết đi. Nếu bạn đã và đang viết, xin hãy tiếp tục, đừng từ bỏ.
Cung Thị Lan