Thursday, October 10, 2013

TƯỚNG GIÁP VÀ HUYỀN THOẠI ĐIỆN BIÊN PHỦ (1)

















Kính gửi: Ngài Laurent Fabius,
Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp

TRẦN NHU

Thưa Ngài!
Nhân đọc thông báo của Tòa Đại sứ Pháp tại Hà Nội, ngày 7-10-2013, có lời chia buồn của ngài sau cái chết của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. Một người Cộng sản vĩ đại đã làm cho Ngài vô cùng xúc động!
Thật là một cử chỉ đẹp của một xứ sở có truyền thống văn minh văn hóa. Trong khi đó những tờ báo lớn của Pháp - Le Monde, Libération và L’Humanité - xưng tụng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng của Việt Nam, xứng đáng được xem như chiến lược gia ngoại hạng của thế kỷ Hai Mươi.
Thực ra từ nhiều thập niên qua cho đến bây giờ, nhiều trí thức, học giả và chính trị gia phương Tây đã đánh giá Đại tướng Giáp là một nhân vật kiệt xuất, có thiên tài về quân sự. Thật là tội nghiệp cho họ và buồn thay cho những người Việt Nam chúng tôi! Mong muốn hơn ai hết, đất nước có một vị tướng tài lại được cả thế giới ngưỡng mộ thì ai chẳng tự hào, nhưng sự thật đáng xấu hổ!
Với tư cách là người viết sử, tôi nhận định tướng Giáp qua tư tưởng, hành động và những giá trị cụ thể, một phần do chính ông viết trong cuốn “Điện Biên Phủ Điểm Hẹn Lịch Sử”, Xuất Bản năm 2000 và “Tổng Tập Hồi Ký”, xuất bản năm 2004, do chính ĐT Võ Nguyên Giáp viết. Bên cạnh Hồi Ký các tướng Tầu như Trần Canh và Vi Quốc Thanh v.v…
Vậy, tôi gửi ông mấy chương trích trong cuốn “Đại Họa Diệt Chủng” có liên quan đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp để ông và mọi người tham khảo.
Rất mong nhận được hồi âm.
Trân trọng,
Trần Nhu

**
Kỳ I

AI CHỈ HUY CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI VÀ ĐIỆN BIÊN PHỦ?

Để giải đáp câu hỏi mang đầy tính lịch sử này, không gì bằng cách đối chiếu hồi k‎ý của những nhân vật chủ chốt của cả hai phía Tầu và Việt, đã viết về các chiến dịch mà họ đã chỉ huy cũng như ai đích thực là người lãnh đạo tối cao cuộc kháng chiến chống Pháp “thần thánh?”
Có lẽ, tốt hơn hết là đặt cả hai lên bàn cân và để họ tự phô diễn, dù phần trích dẫn có nhiều, theo lệ thường là không nên. Nhưng muốn xác định sự rõ ràng ai lãnh đạo, ai chỉ huy? thật khó.

Tác giả mở đầu bằng trích dẫn Tổng Tập Hồi Ký (TTHK) của ĐT Võ Nguyên Giáp. Về chiến dịch Biên Giới và vai trò của cố vấn Tầu, tướng Giáp viết nơi tr. 679 -681 như sau:
  “Vấn đề nổi bật trong chiến dịch là chiến thuật đánh diệt viện. Các bạn Trung Quốc đặc biệt coi trọng chiến thuật này. Trước đây trang bị vũ khí yếu kém, ta chủ trương tránh lực lượng cơ động của địch…
Chiến dịch Biên Giới xứng đáng mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ chuyển sang phản công và tiến công của quân đội ta. Đây là một chiến dịch vận động và tiến công điển hình trong kháng chiến chống Pháp (…)
Ít ngày sau chiến thắng Cao-Lạng, chúng tôi nhận được mấy câu thơ chúc mừng chiến thắng bằng chữ Hán của Chủ Tịch Mao Trạch Đông:
“Thanh niên đích Việt Nam quân
Nhất minh kinh nhân”
Tạm dịch:
“Quân đội Việt Nam trẻ tuổi”. Vấn đề nổi bật trong chiến dịch là chiến thuật đánh điểm diệt viện. Các bạn Trung Quốc đặc biệt coi trọng chiến thuật này. Trước đây trang bị vũ khí yếu kém, ta chủ trương tránh lực lượng cơ động của địch (…)
Chiến dịch Biên Giới xứng đáng mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ chuyển sang phản công và tiến công của quân đội ta. Đây là một chiến dịch vận động và tiến công điển hình trong kháng chiến chống Pháp (…)
Ít ngày sau chiến thắng Cao – Lạng, chúng tôi nhận được mấy câu thơ chúc mừng chiến thắng bằng chữ Hán của Chủ tịch Mao Trạch Đông:
“Cất một tiếng người kinh sợ.”

Sở Trang Vương thời Đông Chu lên làm vua đã ba năm, chỉ ham mê săn bắn, vui chơi với mỹ nữ trong cung. Một triều thần kể với nhà vua câu chuyện: “Có một con chim lớn, lông đủ màu sắc, đậu trên gò cao nước Sở, đã ba năm mà không bay, cũng không kêu, không biết là con chim gì? Sở Trang Vương hiểu ý, nói: “con chim ấy không phải là con chim thường, ba năm không bay, bay tất cao tận trời. Ba năm không kêu, kêu tất làm cho người ta khiếp sợ (Tam niên bất minh, Nhất minh kinh nhân). Sau đó, Sở Trang Vương được xếp vào một trong “ngũ bá” thời Xuân Thu.
Chủ tịch Mao chỉ mượn bốn chữ của người xưa, mà nói lên được chiến thắng vang dội lần đầu của quan và dân ta trong chiến dịch Biên Giới.”

Phía Tầu:
 Nói về hai viên tướng Vi Quốc Thanh và Trần Canh. Vu Hóa Thẩm viết:
“Thời kỳ chiến tranh Việt Nam chống Pháp có hai trận đánh lớn, một là chiến dịch Biên Giới, Trần Canh giúp chỉ huy, hai là chiến dịch Điện Biên Phủ, Vi quốc Thanh giúp chỉ huy. Bài viết này tường thuật, tóm lược chặng đường đặc biệt của Vi Quốc Thanh nhất trong vai trò quan trọng của đồng chí trong cuộc quyết chiến Điện Biên Phủ.” (…)
(Hồi ký cố vấn Trung Quốc tr. 19)

Sau khi đọc hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và các tướng lãnh Tầu tác giả cố gắng tóm lược những diễn tiến các chiến dịch với sự tham gia của Trần Canh và Vi Quốc Thanh do chính Võ Nguyên Giáp ghi lại.

CHIẾN DỊCH ĐÔNG KHÊ
Ngay từ tháng 6 năm 1950, Tầu Cộng đã trực tiếp nhúng tay vào điều khiển ĐCSVN với nhiều đoàn chuyên gia, cố vấn đủ các bộ, các ngành: Chính trị, quân sự, công an… Huấn luyện, trang bị súng đạn, quân trang, quân dụng. Họ bắt đầu mở những trận đánh lớn.
Trong chiến dịch Đông Khê, Võ Nguyên Giáp kể lại chiến dịch này với sự tham gia của đoàn cố vấn như sau:
“Tôi mở bản đồ trình bày về tình hình địch, những lực lượng của ta tham chiến, những lý do mở đầu chiến dịch bằng đánh Đông Khê. Trần Canh sang thay cho đồng chí La Qúy Ba về nước. Nhìn trên bản đồ, hỏi về binh lực, đội hình, công sự phòng thủ của địch tại Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, rồi nói: “Đánh Đông Khê để kéo viện binh địch là chiến thuật “đánh điểm diệt viện” của Giải Phóng Quân Trung Quốc thường dùng trong chiến tranh chống quân Tưởng. Việt Nam nên vận dụng nhiều chiến thuật này.”
(trích dẫn trong Tổng Tập Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp tr. 631)
Thế quá rõ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tổng chỉ huy, tổng tham mưu, Bộ trưởng bộ quốc phòng quân đội nhân dân Việt Nam, mà một chiến dịch nhỏ cũng phải trình bày, và thỉnh cầu quyết định của cố vấn Tàu.
Sự chiến thắng của quân đội Việt Minh trong chiến dịch biên giới không những nhờ vào sự lãnh đạo của cố vấn Tầu, mà còn nhờ vào sự viện trợ của Cộng Sản Hoa Lục.
Võ Nguyên Giáp thú nhận:
“Nhân dân tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc đã hết lòng đóng góp lương thực cho chiến dịch. Những đoàn xe vận tải của Quân giải phóng Trung Quốc đã chạy thâu đêm cả tháng ròng trên con đường Cửa Khẩu Việt Nam- Trung Quốc. Tính đến hết năm 1950 ta đã tiếp nhận của Trung Quốc 1200 tấn vũ khí đạn dược. 180 tấn quân trang, quân dụng. 2643 tấn gạo. 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 800 tấn hàng quân giới, 300 xe ôtô. 120 tấn xăng dầu viện trợ của Trung Quốc là nguồn cung cấp quan trọng cho các chiến dịch.”…
Trước khi về Lam Sơn, Cao Bằng, nơi sẽ họp hội nghị tổng kết, tôi rẽ sang Thủy Khẩu. Đồng chí Lý Thiên Hữu, (Tuần phủ) phó tư lệnh Quân khu Quảng Tây và Đoàn cố vấn Trung Quốc cũng đang có mặt ở đây.
Suốt thời gian chiến dịch, các đồng chí lãnh đạo Quảng Tây đã giúp đỡ tận tình. Đồng chí Lý Thiên Hữu đã xuống tận Thủy Khẩu giáp biên giới Việt Nam nhiều ngày, đôn đốc việc vận chuyển gạo.
Cuộc gặp đồng chí Lý và Đoàn cố vấn sau chiến thắng được đánh dấu bằng một bữa rượu khiến tôi nhớ mãi. Tôi không uống được rượu, nhưng hôm đó đã uống một chén đầy và biết như thế nào là say rượu.”  (TTHK Võ Nguyên Giáp Tr. 674.)
Quảng Tây luôn luôn là đầu cầu các cuộc xâm lăng của bọn giặc phương Bắc đối với nước ta từ trước tới nay.
Phía Tầu.
Hồi ký của những người “Trong cuộc.”
Viết về viên tướng Vi Quốc Thanh như sau:
 “Hồi Ký cố vấn Trung Quốc Vũ Hóa Thẩm mở đầu, tác giả nói về cuộc đời binh nghiệp của Vi Quốc Thanh văn võ song toàn, lập nhiều chiến công. Chiến tranh giải phóng thắng lợi chưa được bao lâu, đồng chí vâng lệnh dẫn đầu đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp.”
Vậy vai trò của Vi Quốc Thanh quan trọng như thế nào và bộ chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến chống Pháp “thần thánh” được chỉ đạo từ đâu?
Hồi ký cố vấn Tầu giúp ta giải mã những bí mật đó. Dưới đây là hồi ký của Vũ Hóa Thẩm (đăng trong Thượng Tướng Phong Lục, nxb. Đại Bách Khoa, ấn bản năm 2000 (Dương Danh Dy dịch,) với tiêu đề: (Xin xem tư liệu quan trọng cuối chương)
“Tiến quân lên Tây Bắc”
Sau khi về Bắc Kinh, đồng chí Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình công tác của đoàn cố vấn quân sự với Lưu Thiếu Kỳ, Nhiếp Vinh Trăn, trình bày ý kiến của mình đối với chiến trường Việt Nam và phương hướng công tác chiến từ nay về sau, được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương coi trọng.
Thu đông năm 1951, tình hình chiến tranh Triều Tiên tương đối ổn định. Mao Trạch Đông càng quan tâm theo dõi với tình hình chiến sự Đông Dương hơn. Tầm mắt của Mao Chủ tịch không chỉ chú ý theo dõi chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, mà còn chú ý theo dõi chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ, chú ý theo dõi Lào và Campuchia. Không chỉ chú ý theo dõi chiều hướng của quân Pháp, mà còn quan tâm đến hoạt động của Mỹ đặt chân vào Đông Dương. Trong đầu Mao Chủ tịch dần dần hiện lên rõ nét một ý tưởng chiến lược: trước hết mở chiến trường Tây Bắc, giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ, phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Tấn công trước vào vùng binh lực địch mỏng yếu, để từng bước làm cho mình lớn mạnh lên, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Phải đề xuất kiến nghị này với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Cử ai đi bây giờ? Sau khi Mao Trạch Đông bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định giao nhiệm vụ này cho La Quý Ba hoàn thành, và giao La Quý Ba kiêm luôn quản lý công tác của Đoàn cố vấn.
Sau khi La Quý Ba đến Việt Nam, chuyển tới chủ tịch Hồ Chí Minh sự phân tích và kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với phương hướng tác chiến từ nay về sau, Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị đó. Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp trong tháng 4, ra quyết định chuyển hướng chủ công của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc…(*)
Hồ Chí Minh bày tỏ hoàn toàn tán thành kiến nghị này. Các vị lãnh đạo lại thảo luận thêm vấn đề tác chiến vùng Tây Bắc và đi đến ý kiến nhất trí…”
Ngày 14/12, Người điện cho Võ Nguyên Giáp và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện viết: “Bọn địch ở Nà Sản cô lập, tấn công Nà Sản có ý nghĩa rất lớn đối với củng cố Tây Bắc, phát triển quan hệ với Lào, nên ra sức tiêu diệt quân địch ở đây, đừng để cho chúng chạy thoát. Nếu không thể tiêu diệt một lần thì chỉ vài lần tiêu diệt chúng. Và đề ra, trên nguyên tắc, không ảnh hưởng đến đánh Nà Sản có thể đồng thời hoặc sớm hơn quét sạch bọn địch ở vùng Lai Châu.
“Bức điện đó của Hồ Chí Minh, Vi Quốc Thanh được xem trước, vì điện văn qua lại giữa Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đều do điện đài của Đoàn cố vấn sau khi nhận và dịch mới chuyển cho phía Việt Nam.”
(Như thế còn gì là bí mật quốc gia?) trong ngoặc đơn lời người viết.

CHIẾN DỊCH CAO BẰNG
Về Chiến dịch Cao Bằng, Võ Nguyên Giáp viết:
“Đoàn cố vấn Trung Quốc đã có mặt ở Cao Bằng. Lần này, đống chí Vi Quốc Thanh ở lại sở chỉ huy cùng với chúng tôi. Tại hội nghị đồng chí Trần Canh (cố vấn TQ 1903- 1961) (1) đã phát biểu, nêu lên những thành công của chiến dịch. Đồng chí đánh giá cao chiến dịch Biên Giới. Rút ra những bài học quan trọng và nói nhiều về bản chất của quân đội cách mạng của Mao Chủ Tịch. Sau hội nghị đồng chí Trần Canh, đồng chí Vi Quốc Thanh và tôi ngồi trao đổi với nhau trên nhà sàn quanh tấm bản đồ trải rộng. Đồng chí Trần Canh trỏ ngón tay vào con đường số 3 chạy từ Cao Bằng về Hà Nội… rồi đồng chí vạch ba vòng tròn ở Trung Du, phía Bắc và phía Nam Hà Nội, nói tiếp: “phải ba chiến dịch, như chiến dịch Biên Giới, thời gian khoảng một năm”(2) (TTHK Võ Nguyên Giáp Tr. 674.)
Về việc sử dụng quân đội Việt Minh cho chiến tranh. Ngay từ năm 1949, Tầu Cộng mở chiến dịch “Vạn Địa Sơn” chiếm vùng Ung Long, Khâm Liêm giáp biên giới Đông Bắc của nước ta thông ra biển. Theo lệnh của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đã đưa bộ đội Việt Minh ở liên khu 1, do Lê Quảng Ba làm tư lệnh. Nói là để phối hợp với Giải Phóng Quân Trung Quốc cùng mở chiến dịch. Ngay trong “Bộ Thông Sử Thế Giới Vạn Niên”. Do nhà xuất bản Thông Tin Hà Nội ấn hành nằm 2000, tập B-tr. 2424 có ghi rõ: “Chỉ huy chiến dịch là đồng chí Lê Quảng Ba (Việt Nam) làm tư lệnh quân Việt Nam. Trần Minh Giang (Trung Quốc) làm chính trị viên”. Trong đoàn quân Việt Minh có nhiều cố vấn Trung Quốc như Hoàng Bình, Minh Giang, Đỗ Thanh, Đỗ Trình v.v… như thế cho chúng ta biết ngay từ những ngày đầu thành lập quân đội Việt Minh, Mao Trạch Đông đã có ý định biến quân đội Việt Minh thành công cụ cho họ (ngụy quân chính hiệu).
(Còn nữa)

-----------------------------
(*) Trần Nhu nguyên là Giaó sư sử học taị Hà Nội. Ông vượt biên và định cư tại California vào giữa thập niên 80s. Ông là tác giả tác phẩm biên khảo Thăng Long Xưa Hà Nội Nay và các tác phẩm lịch sử trong đó có quyển Đại Họa Diệt Chủng mà tác giả trích dẫn gửi cho chúng tôi trong loạt bài này.

No comments:

Post a Comment

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...