Thursday, March 24, 2016

TUYỂN TẬP VĂN 50 NĂM CẦM BÚT CỦA NHÀ VĂN SONG NHỊ DƯỚI GÓC NHÌN SỬ HỌC.













































LÊ ĐÌNH CAI
 
Nhà văn Song Nhị đã xuất bản được ba tác phẩm về thơ trước 1975. Sau năm 1975, tại hải ngoại, ông đã xuất bản được ba tác phẩm nữa về thơ – Tiếng Hờn Chiến Mã (Cội Nguồn California 1996, tái bản 2002), Về Lối Đi Xưa (Cội Nguồn 1999) và Tiếng Hót Loài Chim Di (Cội Nguồn 2002). Năm 2003 ông cho xuất bản tập Lưu Dân Thi Thoại (Khảo Luận Thơ, Cội Nguồn xb), cùng viết với nhà văn Diên Nghị. Tác phẩm “Lời Rao Giảng Của Thơ” của ông được xuất bản vào năm 2014, (NXB Cội Nguồn). Riêng về văn, ông cho ấn hành tập bút ký tự truyện “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” vào đầu năm 2010, tái bản vào tháng 8/ 2010; và mới đây “Tuyển Tập Văn 50 Năm Cầm Bút” do NXB Cội Nguồn ấn hành cuối năm 2015 tại California, Hoa Kỳ
.


“…. hãy trực tiếp đón nhận tác phẩm này của nhà văn Song Nhị để chia sẻ cùng ông niềm khát khao được làm nhân chứng của Sự Thật và để được bảo vệ Sự Thật ấy, như đại văn hào Voltaire (1694-1778) đã từng nói: “I may disagree with what you have to say, but I shall depend, to the death, your right to say it”.

***
Người viết chú trọng đến các sáng tác về văn xuôi của nhà văn Song Nhị nhiều hơn, nhất là bút ký tự truyện hay phần biên khảo của tác giả. Và trong phạm vi chuyên môn của ngành sử học, người viết muốn đề cập đến các lý chứng, nhân chứng và vật chứng trong các tác phẩm của tác giả để giới thiệu đến bạn đọc các sử liệu có thể tin được, sàng lọc các diễn biến  của các biến cố mà tác giả đã sống qua, đã kể lại bằng mắt thấy tai nghe về những giai đoạn biến động lớn của dân tộc: Giai đoạn tranh chấp Quốc - Cộng, từ ngày Việt Minh cướp chính quyền (tháng 8 - 1945), phong trào giảm tô và cải cách ruộng đất, đến sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam tháng 4 – 1975, rồi những năm tháng tù đày sau đó cũng được ông ghi lại mà ông là nạn nhân và là nhân chứng trực tiếp về chế độ lao tù khổ sai của cộng sản Việt Nam.

Từ “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” cho đến “Tuyển tập Văn 50 Năm Cầm Bút” thì bối cảnh của đất nước, thân phận của người tù đã được kể lại hết sức sinh động, chân thành, tác động rất mạnh lên cảm xúc của người đọc. Về tác phẩm “Nửa Thế Kỷ Việt Nam”, người viết đã có bài nhận định giá trị về phương diện sử liệu của cuốn sách này.

“Chính tác giả Song Nhị là người đã làm sống lại dòng chảy của thời gian đã qua, khơi lại nhịp thở của xã hội đương thời, lay động được những hồn ma ngủ quên trong nấm mồ oan khiên của lịch sử, dựng họ dậy để cùng ông lên tiếng thêm một lần nữa trước công luận thế giới về một giai đoạn tối tăm và bi thảm của lịch sử Việt tộc.
(NTK.VN, Cội Nguồn California USA, tái bản lần thứ nhất 2010, tr. 487)

Cuối năm ngoái, 2015 nhà văn Song Nhị vừa cho ấn hành tác phẩm “Tuyển Tập Văn 50 Năm Cầm Bút 1965-2015” (Miscellanea. 50 Years of Song Nhi’s Writing Career). Đây là cuốn sách dày khoảng 450 trang, gồm 8 chương, kể cả chương dẫn nhập. Trong đó, các thể loại được sắp xếp như sau:
- Trả lời phỏng vấn (Chương hai, từ trang 21 đến 65)
- Sáng tác (Chương Ba tr. 66 – 130)
- Đoản bình, Quan điểm, Nhận định (Chương Bốn, tr. 131 – 182)
- Tiểu Phẩm – Khảo luận (Chương Năm, tr 183 – 247)
- Đọc sách, Giới thiệu tác phẩm (Chương Sáu, tr. 248 – 314)
- Bút Ký, Tự truyện (Chương Bảy, tr. 315 – 397)
- Tạp văn, Phiếm luận (Chương Tám, tr. 398 – 437).
Đọc kỹ mục lục chi tiết ở cuối sách (trang 437), độc giả dễ dàng theo dõi các chủ đề mà tác giả đã sáng tác, đề cập hay bàn luận tới.

Nhà phê bình văn học, Diên Nghị đã nhận xét trong lời tựa cuốn sách này: “Người nghệ sĩ, trong sinh họat xã hội được coi như một chứng nhân, quan sát và khám phá, dưới ánh sáng hiện thực tự do”. Nhà văn Song Nhị đã “tập hợp nhiều bài viết liên quan thời thế, con người, xã hội, quá khứ lùi xa và hiện tại sôi nổi, tập sách đã nói lên nhiều điều đáng suy gẫm”. (Song Nhị, sđd, lời tựa, tr. 8).

Đối với những nhà nghiên cứu, nhất là ngành sử học, những đóng góp về sử liệu trong các tác phẩm của nhà văn Song Nhị quả thật rất đáng kể. Cuốn “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” xuất bản năm 2010 là một tác phẩm có giá trị rất cao về phương diện sử học như người viết đã có dịp trình bày. Dù tác giả viết dưới dạng bút ký tự truyện, nhưng nội dung cuốn sách chất chứa những chứng liệu lịch sử rất có giá trị để tham khảo. “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Thời Chí chẳng hạn, một tác phẩm không phải thuần túy thuộc về sử học, hay Phù Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn, “Vũ Trung Tùy Bút” của Phạm Đình Hổ cũng là tập ghi chú, bút ký hoặc kể chuyện nhưng sau này đã được xếp vào loại các tư liệu có giá trị khi nghiên cứu về những biến cố liên hệ đến sinh hoạt xã hội của các thế kỷ trước.

Đánh giá một tác phẩm được coi là có giá trị sử học, phải trải qua các công đoạn: Cẩn án ngoại (External Study) và Cẩn án nội (Internal Study) thì sự sàng lọc mới kỹ càng. Xin thử xét qua “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” của Song Nhị trên phương diện cẩn án ngoại, tức xét về nhân thân của tác giả (tiểu sử), thân thế, sự nghiệp… liệu có đáng tin cậy hay không, có khả năng, trình độ trong việc ghi lại biến cố trung thực đến mức độ nào? Xong rồi đi vào nội dung của tác phẩm (cẩn án nội) để xét đến sự kiện, diễn biến của biến cố, sự chứng kiến trực tiếp hay gián tiếp, thấy hay nghe kể lại, động cơ tình cảm, thương ghét…. Là những yếu tố được xét đến trong gia đoạn cẩn án nội này.

Dựa vào những yếu tố như vậy thì cuốn “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” chắc hẳn sẽ được các nhà nghiên cứu hoặc các sinh viên ngành sử học sẽ chú trọng đến khi đề cập đến giai đoạn tranh chấp quốc - cộng từ 1945 đến 1975, nhất là cuộc cải cách ruộng đất kinh hoàng ở miền Bắc khi phe côïng sản lên nắm chính quyền. Các nhà nghiên cứu hay sinh viên ngành sử học khi muốn tìm hiểu giai đoạn đối đầu giữa hai phe Quốc gia và Cộng sản tại miền Nam VN trong những năm đầu và giữa thập niên 1960 thì NTKVN sẽ là tư liệu hàng đầu cần để tham khảo.

Với cách nhìn này, nên khi đọc tác phẩm “Tuyển Tập Văn 50 Năm Cầm Bút”, người viết đã chú trọng đến những chương sách mà bạn đọc có thể truy cập đến những sử liệu cho các đề tài về lịch sử cận và hiện đại (Chẳng hạn, chương Hai, chương Bốn, chương Năm và chương Bảy).

1.- Chương Hai: Trả lời phóng vấn
Bạn đọc có thể tìm hiểu về bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam qua việc tác giả trả lời cuộc phỏng vấn của Sinh viên Julie Pham. Quan niệm của tác giả về Quân Lực VNCH, về sự hiện diện của người Mỹ, nhất là lý do vì sao tác giả phải vượt tuyến vào miền Nam sau Hiệp định Geneve. Trong phần phỏng vấn Vietnam Film Club, nhà văn Song Nhị đã làm rõ thêm về thảm cảnh của phong trào Cải cách ruộng đất mà anh là nhân chứng sống trực tiếp của biến cố bi thảm này.

2.- Chương Bốn: Đoản bình, Quan điểm, Nhận định
Qua đề tài “Bốn Mươi năm nhìn lại những nhân vật phản chiến và phản tỉnh”, tác giả đã nhắc lại một số những nhân vật phản chiến tại miền Nam gồm các thành phần sinh viên, giáo sư, trí thức, tu sĩ Công giáo, Phật giáo đã góp công vào việc làm sụp đổ chế độ miền Nam. Số phận của họ ra sao trong chế độ cộng sản hện nay? Một số đã phản tỉnh và lên tiếng chống lại nhà cầm quyền cộng sản, chẳng hạn SV Đoàn Văn Toại, nguyên Chủ tịch Tổng hội SV Sài Gòn, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Đào Hiếu….

Đặc biệt, tác giả nhắc đến phong trào phản chiến Mỹ từ giữa thập niên 60s là Jane
Fonda và Joan Baez.
Ca sĩ Joan Baez sau khi hồi tâm, đã dấn thân đến tận nơi để “điều tra”, tìm sự thật từ các trại tị nạn. Chính Bà là tác giả Thư Ngỏ 1979, với chữ ký của 78 nhân vật Phản Chiến Mỹ gởi nhà nước CHXHCN.VN cáo buộc những vi phạm nhân quyền trầm trọng với việc bỏ tù, ngược đãi quân cán chính VNCH, kêu gọi thả tù chính trị, tuân thủ nguyên tắc của bản Tuyên Ngôn QT Nhân quyền và Công ước Quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị của LHQ.

Với đề tài “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Dương Văn Minh: Công hay Tội, Khen hay Chê”, tác giả đã trình bày các quan điểm khen chê từ nhiều phía đối với hai nhân vật này, và kết luận: “Đến nay, từng thế hệ những người trong cuộc đã và đang ra đi. Lịch sử đang dò dẫm từng trang từ quá khứ, nhưng lịch sử đích thực không phải là những trang viết từ hôm qua, hôm trước, hôm nay. Thời gian sẽ trả lại sự thực cho lịch sử, thay vì những tình cảm khen chê chủ quan nhất thời. Và như lời ông Nguyễn Văn Ngân “Việc định công luận tội là công việc của lịch sử sau nầy” (Song Nhị, sđd, tr. 156).

3.- Chương Năm:  Tiểu Phẩm, Khảo Luận
Trong chương Năm, bài “Sài Gòn Ba Trăm Năm, Những Chặng Đường Lịch Sử” (tr. 184-189); bài “Công chúa Huyền Trân trong Hành Trình Đại Việt” (tr. 190 -202) và bài “Những Người Muôn Năm Cũ Hồn Ở Đâu Bây Giờ” (tr. 203 -212) đề cập đến những vấn đề lịch sử rất đáng lưu ý.

*- “Sài Gòn Ba Trăm Năm Những Chặng Đường Lịch Sử”: Sau khi đã đề cập một số sử liệu về sự hình thành của Sài Gòn trong giai đoạn đầu, tác giả chú trọng đến hình ảnh của Sài Gòn sau ngày 30-4-75 và đi đến kết luận: “Ngày nay Sài Gòn đang bị tha hóa, trụy lạc, băng hoại. Ngoài lớp vỏ và bộ mặt hồi sinh, thay đổi, bên trong, mọi nền tảng văn hóa dân tộc thoái hóa; đạo đức, luân lý suy đồi. Mọi giá trị tinh thần bị bóp nghẹt. Giới chức lãnh đạo đất nước đã lộ rõ là những kẻ tuân hành mệnh lệnh của kẻ thù phương Bắc. Đất nước đang đứng trước nguy cơ là chư hầu của Hán tộc” (SN, sđd, tr 189).

*- “Công chúa Huyền Trân trong Hành Trình Đại Việt”: Nàng công chúa kiều diễm mà  sử sách nhắc đến khá nhiều về công trạng giúp vua cha Trần Nhân Tông mở mang bờ cõi về phương Nam, khi nàng tuân lệnh phụ thân kết duyên với vua Chiêm là Chế Mân vào tháng 6 năm Bính Ngọ (1306). Nhà văn Song Nhị đã viết lại đề tài này hết sức sống động. Ngoài những tư liệu lịch sử đối chiếu được sử dụng làm nền cho bài viết, tác giả đã để cảm xúc của mình buông thả theo ngòi bút và khiến độc giả say mê qua các vần thơ đầy xúc động của ông:
“…. Ô Lý hai châu về xứ ngoại/ Bao đời xứ sở một quân vương/ Là đây tình sử trong thiên hạ/ Rồi mấy nghìn sau hậu thế lường?/ Rồi mấy nghìn sau đời kể lại/ Cơ đồ Chiêm Quốc một Công Nương/ Một trang sử viết thời Chiêm-Việt/ Một cõi sơn hà cũng khói sương….”(sđd, tr. 201).

*- “Những Người Muôn Năm Cũ Hồn Ở Đâu Bây Giờ”, với đề tài này, tác giả muốn nhắc lại hai nhân vật lịch sử có ảnh hưởng rất lớn trong thời Pháp thuộc: Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) và Alexandre de Rhodes. Sử sách đã nói nhiều hai vị cố đạo này. Tuy nhiên, nhà văn Song Nhị lại lưu ý đến ngôi mộ của hai vị ấy sau khi nghĩa trang MẠC Đỉnh Chi và lăng Cha Cả ở khu vực ngã tư Lê văn Sỹ – Hoàng văn Thụ đã bị chính quyền CS san bằng năm 1984. Riêng Alexandre de Rhodes, người có công trong việc hệ thống hóa chữ quốc ngữ đầu tiên, một nhà bia kỷ niệm ông được xây trong khu đền Bà Kiệu (cạnh Hồ Gươn), khánh thành ngày 29-5-1941. Ngày nay tấm văn bia ghi công đức của Alexandre vẫn nằm chỏng chơ dưới tầng hầm của khu bảo quản di tích, số 90 phố Thợ Nhuộm, Hà Nội. Trước sự việc này, nhà văn Song Nhị bày tỏ: “Văn hóa và đạo lý VN không bao giờ chấp nhận thái độ ấy. Tôi nghĩ, là con người, không riêng gì con người Việt Nam, vong ân mới là một trong những điều đáng chê trách….”(SN, sđd, tr. 212)

4.- Chương Bảy: Bút Ký, Tự truyện
Tác giả Song Nhị trong chương bảy này đã trình bày tám đề tài, trong đó có “Quê Cha Đất Tổ – Một chuyến Hành Hương” (đề tài 44, tr. 228) – “Quê Hương và Máu thịt” (đề tài 45, tr.347) có nhiều tư liệu giúp soi chiếu vào một số góc cạnh lịch sử của đất nước Việt Nam. Còn các đề tài khác chỉ nhằm giới thiệu đến độc giả những cảnh quan du lịch, thăm viếng như “Houston Du Ký”, giới thiệu một thành phố bang Texas, “Những ngày tình đầy trên xứ Kangaroo, (giới thiệu về Úc châu), “Paris, một thời Mơ mộng” và “London 60 năm ngày hội lớn” cũng vậy, nhằm giới thiệu đất nước và con người của Pháp quốc và Anh quốc.

Trở lại đề tài 44, “Quê Cha Đất Tổ – Một chuyến Hành Hương”, tác giả kể lại chuyến trở về thăm quê hương sau một thời gian rất dài xa cách trong “Sài Gòn và những đổi thay”: Mười sáu năm xa đất nước, nửa thế kỷ xa xóm làng – quê hương của tuổi thơ, nơi chôn nhau cắt rún, tôi trở về hành hương quê cha đất tổ, với tâm trạng của một kẻ “lạc loài”. (sđd, tr. 328).

Khi được hỏi cảm tưởng của ông về thành phố Sài Gòn ngày xưa và Sài Gòn bây giờ, nhà văn Song Nhị đã trả lời: “Tôi không biết trả lời thế nào cho vừa ý họ. Tôi liên tưởng tới đất nước, và những thành phố lớn của các quốc gia Đông Nam Á, như Mã Lai, Singapore, Thái Lan, Nam Hàn… trước năm 1975 họ đi sau Sài Gòn rất xa, thế mà giờ này Sài Gòn tụt lại sau họ cả trăm năm. Sài Gòn giờ đây có nhiều cao ốc, mọc lên lởm chởm, rải rác trên những con đường, tạo thành một cấu trúc tổng thể rời rạc, luộm thuộm….” SN, sđd, tr 330).

Nhân dịp chuyến trở về này, tác giả cùng gia đình tìm cách trở lại thăm quê làng Phú Gia, do vị thủy tổ họ Trần Kim (của tác giả) thiết lập từ thế kỷ 17. Đó là vị quan Nhất phẩm đời vua Lê Hy Tông (niên hiệu Chính Hòa 1685), được sắc phong vị hiệu “Tiền Tướng Thần Lại Trần Tướng Công Nhập Thị Nội Điện, hiệu Bố Nghệ Công” (SN, sđd, tr. 335). Sự ghi nhận này của tác giả đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu nhửng sử liệu rất có giá trị, nhất là cuốn “PHÚ GIA – LỊCH SỬ. SỰ TÍCH” do cụ thân sinh của tác giả, cụ Trần Kim Tần, bút danh Đông A Phúc Nhạc, xuất bản năm 2001 tại Hoa Kỳ.

Tác giả đã dựa vào cuốn sách này để giới thiệu cho độc giả nhiều địa danh lịch sử như đền Trăm Năm (Miếu thờ công chúa Liễu Hạnh, thiết lập từ thế kỷ thứ 17 với một giếng sâu nhiều chục mét, có nhiều truyền tích, huyền thoại linh thiêng). Hiện đã được chính quyền CS Hà Nội công nhận là di tích văn hóa. Phú Gia còn có đồn Sơn Phòng, xây dựng dưới thời Văn Thân chống Pháp. Chính nơi đây vua Hàm Nghi đã đến trú ngụ một đêm tại đền Công Đồng, sáng hôm sau trên đường trở ra Quảng Bình thì bị tên đội trưởng cận vệ Trương Quang Ngọc phản bội, bắt nhà vua giao cho Pháp. Cuộc kháng chiến của vua Hàm Nghi bị dập tắt từ đó. (SN, sđd, tr. 336-337).

Cũng trong chương “Dưới Khung Trời Quê xưa”, tác giả đã kể lại chuyến viếng thăm khu di tích kỷ niệm Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng trong văn học cổ điển của nước ta, được xây tại Đồng Cùng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tác giả đã kể lại chi tiết của cuộc viếng thăm, nhắc lại cuộc đời và sự ngiệp của của cụ. Cuối cùng tác giả đã cảm tác bài thơ “Về Lại Quê Nhà”, trong đó có đoạn: Tôi về tìm lại quê tôi/ Rưng rưng nước mắt khóc người nghìn thu/ Quê người tôi nhớ Nguyễn Du/ Quê tôi, tôi đứng giữa mù mịt xa…./ SN, sđd. tr.345).

***

“Tuyển tập Văn 50 Năm Cầm Bút” của tác giả Song Nhị dày đến 450 trang, gồm có tám chương, kể cả chương dẫn nhập, đề cập đến nhiều đề tài liên hệ đến sáng tác văn học, bút ký, tự truyện, khảo luận, tạp văn, phiếm luận…. mà người điểm sách chỉ gói trọn trong vài ba trang giấy thì làm sao mà nói hết những điều cần nói, dù đã giới hạn theo cách nhìn của một nhà giáo chuyên ngành sử học.

Cách hay nhất mà người viết xin được đề nghị với quý độc giả là hãy trực tiếp đón nhận tác phẩm này của nhà văn Song Nhị để chia sẻ cùng ông niềm khát khao được làm nhân chứng của Sự Thật và để được bảo vệ Sự Thật ấy, như đại văn hào Voltaire (1694-1778) đã từng nói: “I may disagree with what you have to say, but I shall depend, to the death, your right to say it”.

Lê Đình Cai
(Giáo sư Sử Học)





Wednesday, March 16, 2016

Đám Cưới Thầy Cô























 

A priceless memento/Fine art handicraft/ Nguyen, Minh Quang/ 40yrs ago
A former student/congratulations teachers/ đám cưới thầy cô 1972
Then a former Jet pilot/committed suicide just moments at 11am on 30 April 1975/Saigon VN
(facebook)
 
Tấm ảnh này facebook post lại, nhắc tôi về một kỷ niệm. facebook còn cẩn thận dịch sang tiếng Anh nội dung tấm ảnh. Năm 1972, một tháng truớc đám cưới vợ chồng tôi, Nguyễn Minh Quang, người học trò cũ của tôi mang quà và tấm thiếp này đến tặng "Đám Cưới Thầy Cô", Quang ghi trên thiếp, một tuần lễ sau sang Mỹ tu nghiệp khóa phi công F5 (vừa học xong từ Nha Trang). Từ Mỹ trở đóng quân ở Đà Nẵng. Chiều 29-4 Quang từ TSN chạy xe Honda về đường Truong Minh Giảng đón Phượng, người yêu, nhưng không gặp đuợc Ph. Trở ra TSN thì phi đội F5 đã bay đi. Quang nằm chờ đến sáng 30-4-75, khi nghe lệnh đầu hàng, đã rút súng tự tử. Sáng ngày 1-5-75 tôi nhận đuợc tin bạn Quang đến nhà cho hay, nhưng không cách nào vào TSN đuợc. Sắp đến 30 tháng Tư, fb nhắc tôi một kỷ niệm thật xúc động.

Thiếp Mời tham dự Buổi Ra Mắt Sách



Tuyển Tập Văn 50 NĂM CẦM BÚT

Tác giả SONG NHỊ

CSTV CỘI NGUỒN / Tạp chí NGUỒN & BAN TỔ CHỨC
Trân Trọng Kính Mời:
Quý văn nghệ sĩ, quý cơ quan truyền thông báo chí, quý thân hữu và đồng hương vui lòng đến tham dự  buổi sinh hoạt VHNT giới thiệu tác phẩm mới

TUYỂN TẬP VĂN 50 NĂM CẦM BÚT
Tác Giả: SONG NHỊ

Vào lúc 1 giờ 30 chiều Chủ nhật  17 tháng 4 năm 2016
tại CLB Mây Bốn Phương/ Tòa soạn tạp chí NGUỒN,
số 730 South 2ND Street, San Jose, CA 95112  
Sự hiện diện của quý vị là một khích lệ lớn lao dành cho tác giả và là một vinh dự cho Ban Tổ Chức trong ý hướng phát huy văn hóa và văn học nghệ thuật VN tại hải ngoại.
Rất mong được tiếp đón quý vị đúng giờ

TM. Ban Tổ Chức
LÊ VĂN HẢI

==
CHƯƠNG TRÌNH 
 1: 30:    Tiếp khách, gặp gỡ trao đổi thân tình.
2: 00    Nghi thức Khai mạc   
2:15     Lời chào mừng của Ban Tổ chức  
2:30:     Giới thiệu tác phẩm : GS Lê Đình Cai
2:45:     Giới thiệu tác giả : Nhà văn Diên nghị
3:00:    Phát biểu của Quan Khách và thân hữu.
  Nhà báo Cao Ánh Nguyệt/ Tuần Báo Phụ Nữ Cali
3:15:     Văn nghệ
4:30:     Lời Cảm ơn của Ban Tổ chức, 
           Bế Mạc                
  ==

Buổi RMS được sự bảo trợ của
CSTV Cội Nguồn/ Tạp chí Nguồn
Tuần Báo Thằng Mõ
Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức Bắc California
Hội Đồng hương Nguyễn Hoàng Quảng Trị

Liên lạc Ban Tổ chức:
Lê Văn Hải . Hùng Vĩnh Phước . Diên Nghị . Tiểu Muội  § Lê Diễm  § Hoàng Thưởng  § Thư Sinh  §Phạm Bằng Tường  . Lê Đình Cai  § Duy An Đông  § Song Nhị  

XIN LƯU Ý
Từ Story Rd - Keys đi theo hướng North đường số 3 quẹo trái đường Reed, quẹo trái đường số 2. Free Parking dưới cầu Freeway bên phải.  


Friday, March 11, 2016

NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG THƠ CHIẾN MÃ
























Bài vào tập Tiếng Hờn Chiến Mã, Cội Nguồn XB 1996
Tập thơ ấn hành đầu tiên tại Hoa Kỳ

Song Nhị

Phải chăng, tất cả mọi nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, những người cầm bút, ai cũng có những kỷ niệm với tác phẩm của mình. Tôi nghĩ, tác phẩm nào mà chẳng vay mượn tình riêng để trang trải nỗi lòng người viết, về một bối cảnh đương thời. Mọi tác phẩm văn học xưa nay đều là trung gian giàn trải những giai đoạn của một đời người, của sự kiện, của thời thế và của lịch sử.

Tôi làm thơ, đi vào thơ, hòa lẫn tâm hồn mình vào thơ từ những năm ở dưới tuổi hai mươi. Như những người yêu thơ khác, với tôi, thơ đã đi theo người và người đi theo thơ suốt những chặng đường của đời mình, để lại nhiều kỷ niệm khó quên.

Năm 1958, trong bốn năm lưu lạc ở Lào, tôi gặp một đoàn Sinh viên Hà Nội vượt biên sang sau vụ Nhân Văn - Giai Phẩm. Tôi nhớ anh SV Thái Khắc Chương, quê Thanh Hóa đưa cho tôi mấy số báo Nhân Văn, Giai Phẩm, tôi đọc say mê và thuộc lòng những bài thơ của Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện Tôi quên luôn những bài thơ và cả bút hiệu của tuổi học trò.

Năm 1960 từ Lào về Sài Gòn đi học lại, tôi lại bắt đầu làm thơ, lại viết lách và làm báo - Báo học trò, báo Sinh Viên, báo tường, đặc san, nguyệt san, nhật báo... Như một nghiệp dĩ, mỗi chặng đời thay đổi, đi tới đâu, ở trường học, vào quân đội, ở công sở, công việc của tôi lúc nào cũng dính liền với báo, với thơ. Không ít kỷ niệm buồn vui giữa thơ và tôi trong những thời gian đó.

Trong tập thơ này (Tiếng Hờn Chiến Mã), bài thơ đầu tiên tôi viết khoảng tám tiếng đồng hồ sau khi Sài Gòn bị tràn ngập - bài tứ tuyệt “Ta Gục Giữa Hồn Ta.” Tôi viết trước một ý định, nhưng đã không đủ can đảm để vĩnh biệt tổ ấm gia đình với những người tôi thương yêu nhất. Mười hai ngày sau tôi bị bắt. Sau nửa ngày ngồi trong phòng tối và nửa ngày “làm việc”, tôi được trả về với mệnh lệnh không được đi ra khỏi địa phương. Chiều ngày 12-6-1975, người đàn ông vẫn thường đi xe đạp đến gặp tôi, tới bảo: “Ngày mai anh cứ đi trình diện học tập như những người khác”.

Buổi tối ngồi tập trung giữa sân trường Chu Văn An, rồi nằm phơi sương suốt đêm để chờ xe, tôi bắt đầu làm thơ tù từ đó. Tôi ghi lại trong đầu.

Tại Làng Cô Nhi Long Thành, nơi tập trung trên ba nghìn quan chức chính phủ VNCH, buổi sáng 17-6-1975 những đoàn xe từ các điểm tập trung ở Sài Gòn - Gia Định chở người đổ xuống, cả khu vực ngọn đồi sương mù phủ kín, đen kịt, tôi nắm tay một người bạn vong niên mà anh em chúng tôi vẫn thường quen gọi thân mật là Ông Già, đọc cho ông nghe bốn câu lục bát:

Sương mù lấp ngọn đồi hoang
Bốn phương hội tụ một làng về đây
Biển dâu ai khéo sắp bày
Trăm năm thân thế một ngày ấy sao?!
           
Ông già nhìn tôi cười và bóp mạnh tay tôi. Một tháng sau, trong khi phát hoang đồi cỏ, tôi đọc cho ông già nghe bài Đàn Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng Hoang, ông già bảo tôi: “Anh nhớ giữ lại, về sau này mà viết ra”. Từ đó, hầu hết những bài thơ làm xong tôi đều đọc cho ông nghe. Ông thích nhất bài Đàn Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng Hoang và Tiếng Hờn Chiến Mã.

Năm 1985, Ông già được thả về Sài Gòn. Ông đã bị múc mất một mắt ở trại tù Lam Sơn, mắt còn lại bị mờ. Tôi chở ông về nhà tôi dùng cơm. Cả buổi chiều ông bắt tôi đọc cho ông nghe hết những bài thơ tôi làm trong tù, mang về được.

Sau đó, khi còn ở Sài Gòn, tôi có đưa cho một vài người bạn như các anh Lê Đình Khôi, Nguyễn Hữu Thời (Dân biểu) đọc. Các vị ấy tỏ ý với tôi: “Bao giờ đứa con này chào đời được” và khuyên tôi hãy cất giữ cẩn thận. Ông già có một quá khứ rất sôi nổi và phong phú (1)
 
Sau bài “Đàn Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng Hoang”, tôi đưa hình ảnh con ngựa chiến vào thơ, từ một gợi ý của ông già. Một lần, trong giờ nghỉ giữa buổi lao động, chúng tôi ngồi xúm nhau, một cán bộ CS ngồi bên cạnh, ông già bắt một con cóc trói hai chân treo ngược lên một nhánh cây và nói lớn, cố ý cho viên cán bộ nghe: “Mày đáng tội chết. Tao khoan hồng cho mày. Hết lao động tao sẽ thả.” Viên cán bộ quắc mắt nhìn, đứng dậy tránh xa. Ông cười nói với chúng tôi, đại ý:

Những con ngựa này cứ gặm cỏ, nghỉ chân. Vó ngựa còn sung sức lắm. Đất trời còn mênh mông.

Quả thật đất trời còn mênh mông. Một năm sau chúng tôi chuyển trại về Thủ Đức. Hai tháng sau xuống tàu Hồng Hà ra Bắc. Thơ đã đi theo tôi trong những lần di chuyển đó.

Giữ lấy được những bài thơ của mình trong đời sống thường nhật của tù cải tạo đã là khó. Giữ được, đem lọt qua các cửa ải lục lọi, khám xét trước những lần chuyển trại là điều khó khăn gấp trăm lần. Thường khi làm xong một bài thơ, tôi học thuộc lòng. Cách an toàn nhất là cất giữ những bài thơ đó ở trong đầu. Lâu dần, số lượng bài thơ tăng thêm nhiều, “bộ nhớ” không đủ khả năng ghi lại nữa, tôi phải viết ra giấy. Tôi xếp nhỏ bằng nửa bàn tay để dễ giấu và dễ thủ tiêu khi có “biến”.

Trong một lần lục xét đồ đạc, quần áo của tù, tôi bỏ xấp thơ vào nón lưỡi trai, đội lên đầu, hy vọng không có màn khám xét thân thể. Nhưng khi thấy một số bạn tù bị sờ nắn túi quần, bắt cởi áo, bỏ nón ra, tôi sợ hãi, tuôn mồ hôi hột.  Một viên công an thấy, hỏi tôi: “Anh này sao vậy?” Tôi trả lời: Thưa, tôi  đau bụng, xin cho tôi đi ngoài.” Được gật đầu, tôi chạy ra cầu tiêu công cộng, giở nón thả cả tập thơ xuống hố!

Đã có không ít những tù cải tạo chỉ vì một bài thơ, một lá thư, hay một bài viết mà đã bị đem cùm, bị biệt giam, bị ngược đãi đến chết.

Sau những lần khám xét như vậy, lại phải làm lại. Tôi chép hết những bài thơ không thuộc. Mỗi câu thơ chỉ chép ba chữ đầu, chép khít nhau thành một trang như văn xuôi, vò cho nhàu nát, nhét vào túi xách, vào túi quần áo rách và mỗi ngày học thuộc.

Như một linh tính, từ những năm tháng trong tù, tôi vẫn tin sẽ có một ngày tôi được đọc công khai, được phổ biến những bài thơ của mình trong bạn hữu. Thơ trong tù có sắc thái riêng. Nó chất chứa đủ thứ, từ cọng rau, hạt muối, sợi dây xích, chiếc còng số tám đến tình yêu, tiết tháo, danh dự, và sinh mạng của một con người.

Tôi không bao giờ muốn đem đố kỵ, hận thù vào thơ. Thế mà, trong khổ đau quằn quại, trong đè nén tủi nhục, thơ đã thốt lên thành Tiếng Hờn Chiến Mã.

Hai mươi năm, một khoảnh khắc của lịch sử, nhưng là một quãng thời gian dài của một đời người. Cuộc biển dâu kia dần dà trở nên bàng bạc, phôi pha. Chúng tôi, những người tù trở về mang theo dấu ấn trong tim óc, như một vết thẹo trên da thịt, khó mờ phai. Không ai muốn khơi lại ân oán hận thù. Tôi in tập thơ này để lưu giữ như một kỷ niệm của đời mình.
             
San Jose, Lập Xuân Bính Tý, Tháng 01-1996
                                                              
SONG NHỊ

(1) Ông Già có tên thật là Mạnh Trọng Khánh, cháu gọi Mạnh Trọng Niệm bằng chú ruột. Mạnh Trọng Niệm là người cầm đầu cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu, Nghệ An năm 1956, bị cộng sản xử tử hình. Mạnh Trọng Khánh được Ủy Hội quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến theo Hiệp đinh Genève 1954 can thiệp lấy ra từ nhà tù, ông trốn ra Hải Phòng di cư vào Nam đổi tên là Lê Thiên Sơn ( Lấy họ Lê Lợi và địa danh Thiên Sơn, nơi Lê Lợi dấy binh chống nhà Minh). Ông Già làm việc cùng tôi ở nhật báo Quật Cường từ năm 1971 đến 1975. Ông từ trần tại Sài Gòn khi chương trình H.O khởi sự tiến hành đăng ký xuất cảnh.

Saturday, March 5, 2016

NGUYỄN NGỌC BÍCH ĐỌC “NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM”



 
 
  
Không hiểu tôi có lầm không, nhưng cảm-tưởng của tôi là những ngày gần đây “văn-học H.O.” được mùa.  Này nhé, đối với một người tương-đối thích đọc sách như tôi thì chỉ trong vòng có vài tháng, tôi đã được đọc những tác-phẩm của các cựu-tù-nhân chính-trị VN (hiểu là “cựu-tù-nhân” trong các trại tập trung gọi là “học tập cải tạo” của CS) như: Hồi-ký của Nguyễn Văn Lục, Hồi-ký Võ Long Triều, chưa kể đến loại biên-khảo như Việt Nam trong chiến tranh tư hữu của Nguyễn Cao Quyền hay sách dịch, cuốn I Must Live dịch cuốn Tôi Phải Sống của L.M. Nguyễn Hữu Lễ.

Rõ ràng là gần như có một phong trào mà sự đóng góp của các cựu-tù-nhân chiếm một vị-trí trung-tâm nên tôi xin tạm gọi một cách vắn tắt, gọn gàng là “văn-học H.O.”
           
Sự hiện diện của nền văn-học này có thể bị coi là “lạc lõng” không đối với những người thích trò thời-thượng? Xem một tạp-chí “thời-thượng” như Hợp Lưu, hay một website như Da Màu, Talawas, tôi chắc chắn không có nhiều bài viết về kinh-nghiệm “học tập cải tạo” kiểu CS như ta có thể tìm thấy trong những tác-phẩm vừa được nêu trên. Những người chủ-trương các tạp-chí hay website “thời-thượng” có lẽ nghĩ rằng họ chỉ cần sống với hôm nay, rằng họ đã bỏ được lại quá-khứ đằng sau lưng, bắt kịp được với những ưu tư của thế-giới (như phụ-nữ-quyền, “ghê” hay “gay,” đồng-tính luyến ái, v.v.). 

Thực-sự không phải vậy! Thực-sự, ngay những sản-phẩm loại này vẫn cần đến lịch-sử, như ta thấy báo Hợp Lưu vẫn có những bài về lịch-sử cận-hiện-đại của Vũ Ngự Chiêu hay về văn-học-sử, đôi khi rất xa xôi, của Nguyễn Phạm Hùng, Giáo-sư tại Đại-học Hà-nội. Họ chỉ kỵ nói đến những chuyện mà có thể xem là đụng chạm với chế-độ đương-thời trong lúc này để có thể “hợp lưu” trên mặt trận văn nghệ “phi-chính-trị.”

Song nếu xem được những bài như của Nguyễn Phạm Hùng về “Nam Quốc Sơn Hà” và “Phạt Tống Lộ Bố Văn” của Lý Thường Kiệt hoặc về “Dụ Chư Tỳ Tướng Hịch Văn” (còn được biết ngắn gọn hơn dưới tên “Hịch Tướng Sĩ”) của Trần Quốc Tuấn là có ứng-dụng đến cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay thì tại sao lại phải quay lưng, tránh né những sự thực của một quá-khứ gần gũi hơn nhiều và thậm chí còn ứng vào ngay thực-tế của Việt-nam hôm nay?

Ta đọc tin hàng ngày, thấy những chuyện “chướng tai, gai mắt” như xảy ra với Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Tiến Trung, Hồ Thị Bích Khương, Lê Công Định, hay Cù Huy Hà Vũ mới đây thì thử hỏi loại tin nào, loại kinh-nghiệm nào ứng-dụng hơn đối với cuộc sống của chúng ta hôm nay: chuyện Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay chuyện “học tập cải tạo” của các đàn anh chúng ta?

Tôi là một con người may mắn.  Suốt một đời người gần 3/4 thế-kỷ, tôi chưa bị tù tội tới một ngày chứ nói gì đến chuyện đi “mút mùa” 5-3 “tờ lịch” hoặc lại còn bị kiên-giam nhiều ngày như Phan Nhật Nam hay một số tác-giả H.O. mà ta có dịp đọc. 

Vậy thì tại sao tôi vẫn tìm đọc đến các tác-giả như Song Nhị trong cuốn sách ra mắt hôm nay, Nửa thế kỷ Việt Nam?

Phải chăng vì đó là kinh-nghiệm tập-thể của một dân-tộc mà tôi là một thành-phần trong đó nên không thể tự-loại-trừ mình ra khỏi được?  Nói cách khác, nếu cái vinh cái nhục của một người Quốc-gia như anh Song Nhị cũng là cái vinh cái nhục của tôi thì cái đau, cái uất của anh sau khi mất miền Nam cũng phần nào là cái đau, cái uất của chính tôi tuy nói như người ta mô-tả trong tiếng Anh, đó là “a vicarious pleasure, a vicarious experience,” một thứ “thú đau thương”, vay mượn ở kinh-nghiệm những người sống thật qua những kinh-nghiệm tù đày đó. Để làm gì?  Thưa, để hiểu hơn cái chế-độ hiện vẫn còn đang ngự-trị trên quê hương chúng ta, để thông-cảm hơn với những người hiện đang bị tù đày như các tác-giả H.O. của chúng ta năm xưa.

 … Nếu một sản-phẩm như Hợp Lưu, Da Màu hay Talawas có quay lưng vào cái thống-khổ của dân-tộc vào lúc này, hôm nay, nghĩa là không đá động gì đến những dân oan, đến những vi-phạm nhân-quyền trắng trợn ở quê nhà, dù nhân danh cái gì đi nữa (tỷ-dụ, sự hòa-hợp dân-tộc), thì một người bình-thường như tôi vẫn muốn được học kinh-nghiệm của người đi trước, của người chẳng may rớt vào vòng tù tội thay cho tôi để tôi hiểu biết xã-hội, dân-tộc của tôi hơn.

Đó là lý-do tôi tìm đến đọc cuốn sách ra mắt ngày hôm nay, “bút-ký, tự-truyện” Nửa thế kỷ Việt Nam của tác-giả Song Nhị.
…….

“Tôi đã viết và đã xóa bỏ từng dòng. Tôi đã viết và đã xóa bỏ từng trang. Tôi đã xóa bỏ nhiều lần như vậy. Một bài viết ngắn [. . .] cho tới hôm nay… đã chẵn mười năm!”.

Tác-giả mở đầu sách của anh như vậy. Như thế hẳn không phải là một tác-phẩm bôi bác mà là một tác-phẩm có nhiều đắn đo, cân nhắc.
Các chuyện anh viết, “mười năm góp nhặt, suy nghĩ, đắn đo,” sau một thời-gian bỗng “những cá biệt, tản mạn đó lại tạo nên một bố cục chặt chẽ, sống động, rất thật trên một đường trường lịch sử nửa thế kỷ Việt Nam.”

Vậy ta hãy thử xem những “cá biệt, tản mạn” của anh có những gì?

Chương đầu, “Giữa một miền quê hiền hòa”, nói về những ngày thơ ấu dễ thương của anh “trên đồng ruộng, ngồi trên lưng trâu, hai mùa lạnh buốt thấu xương, nắng cháy da người” ở Nghệ Tĩnh. Rồi đi học, rồi yêu, nhưng phải trốn sang Lào với gia-đình sau khi chứng-kiến (Chương II) - Cuộc Cải Cách Ruộng Đất “long trời lở đất” ở quê nhà. 
Chương III là nói về cuộc vượt biên sang Lào, với gia-đình được sự giúp đỡ của một cựu-sĩ-quan Pathet Lào, và Chương IV cho biết về những ngày tương-đối yên lành ở Lào trước khi bị CS xâm-nhập…. 

Từ Chương V trở đi là cuộc sống của tác-giả và gia-đình trong một miền Nam tự do sau khi bị “trục xuất” từ Lào về. Được ăn học tử tế rồi bị lôi cuốn vào những phong trào sinh-viên bị CS lũng đoạn, tác-giả mô-tả những ngày tranh đấu không riêng gì ở Trường Đại-học Vạn Hạnh chống lại phía bên kia mà còn lan ra khắp các khoa ở Đại-học Sài-gòn.  Chương này và chương sau (khoảng 50 trang) đối với riêng tôi có thể xem là hấp dẫn nhất…. 

Từ đó, tác-phẩm nhảy vọt qua Chương VII (“Miền Nam, Cơn Lũ Nghịch Thường”) nói đến những ngày cuối cùng của miền Nam…. Đó là uyên-nguyên của kinh-nghiệm “học tập cải tạo” sau đó của tác-giả, được mô-tả cặn kẽ với đầy đủ cả các tài-liệu… 

Chương VIII với những “đợt ‘chuyển quân’ bằng máy bay ra Hà Nội,” “chuyến tàu Nam Bắc” với những “số phận lênh đênh.”

Chương IX riêng bàn về trường-hợp “Bùi Đình Thi” và chiêm-nghiệm về “nhân duyên” và “nghiệp quả” trong đó tác-giả cũng dành nhiều ngậm ngùi cho người đàn bà nạn-nhân khổ-sở là vợ Bùi Đình Thi.
Chương X nói về một số trại tù khá khắc-nghiệt ở miền Bắc nhưng cuộc Trung-Cộng tràn quân qua biên-giới (tháng 2/1979) đã buộc CS phải “chuyển quân” một lần nữa từ các trại tù như Nam Hà hay Cổng Trời về những trại như Thanh Cẩm hay Lam Sơn (tức Lý Bá Sơ “danh bất hư truyền” về mặt dã-man từ thời kháng-chiến chống Pháp để rồi cuối cùng cũng được trở về Nam (Chương XIV, “Châu về Hiệp Phố”). 

Xen kẽ trong những trang này là nhiều kinh-nghiệm rất sống động như “Làm thơ trong tù” (Chương XI), “Biểu tình tuyệt thực, Rừng vang tiếng hát” (Chương XII) nói lên sự bất khuất của người tù miền Nam, và “những cảnh huống [khác] trong tù” (Chương XIII) với đầy đủ những cảnh “hỉ, nộ, ái, ố, dục” ghi lại với một ngòi bút khá công-minh.

Sách cũng kết thúc bằng một số chuyện thú vị như “Nghệ sĩ Thành Được và cuộc vượt ngục tập thể FULRO” thành công, và một số gương bất khuất của người tù đáng lưu danh hậu-thế.

Nhưng giá trị không nhỏ là Chương XV (“Hy vọng trong màn đêm, Ánh sáng cuối đường hầm”) là chương nói về sự vận-động của một số tổ-chức hải-ngoại mà hàng đầu là Hội Gia-đình Tù-nhân Chính-trị VN của bà Khúc Minh Thơ làm việc với những nhân-vật như Đại-sứ Robert Funseth để có chương-trình H.O. 

Phụ-lục của sách còn mang một hồ-sơ thật đầy đủ với tài-liệu và hình ảnh mà tác-giả thu thập được để cho mai này ai muốn xuyên-tạc về chương-trình đón cựu-tù-nhân chính-trị của CSVN sang Mỹ cũng không thể dễ dàng phủ-nhận.

Xuyên suốt cuốn sách là một thái-độ rất thận trọng, nhưng không kém phần tự-trọng nói lên được tất cả cái hào-hùng của một quân-đội tuy ngã ngựa và chịu nhiều đầy ải song không bao giờ mất đi cái tính người và tình người của một quân ngũ có ăn học và và đã từng biết thế nào là tự do.

Nguyễn Ngọc Bích
Ngày 13 tháng 11, 2010
James Lee Community Center, Falls Church, VA


Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...