Không hiểu tôi có lầm không, nhưng cảm-tưởng của tôi là
những ngày gần đây “văn-học H.O.” được mùa.
Này nhé, đối với một người tương-đối thích đọc sách như tôi thì chỉ
trong vòng có vài tháng, tôi đã được đọc những tác-phẩm của các cựu-tù-nhân
chính-trị VN (hiểu là “cựu-tù-nhân” trong các trại tập trung gọi là “học tập
cải tạo” của CS) như: Hồi-ký của Nguyễn Văn Lục, Hồi-ký Võ Long Triều, chưa kể
đến loại biên-khảo như Việt Nam trong chiến tranh tư hữu của Nguyễn Cao Quyền
hay sách dịch, cuốn I Must Live dịch cuốn Tôi Phải Sống của L.M. Nguyễn Hữu Lễ.
Rõ ràng là gần như có một phong trào mà sự đóng góp của các
cựu-tù-nhân chiếm một vị-trí trung-tâm nên tôi xin tạm gọi một cách vắn tắt,
gọn gàng là “văn-học H.O.”
Sự hiện diện của nền văn-học này có thể bị coi là “lạc lõng”
không đối với những người thích trò thời-thượng? Xem một tạp-chí “thời-thượng”
như Hợp Lưu, hay một website như Da Màu, Talawas, tôi chắc chắn không có nhiều
bài viết về kinh-nghiệm “học tập cải tạo” kiểu CS như ta có thể tìm thấy trong
những tác-phẩm vừa được nêu trên. Những người chủ-trương các tạp-chí hay
website “thời-thượng” có lẽ nghĩ rằng họ chỉ cần sống với hôm nay, rằng họ đã
bỏ được lại quá-khứ đằng sau lưng, bắt kịp được với những ưu tư của thế-giới
(như phụ-nữ-quyền, “ghê” hay “gay,” đồng-tính luyến ái, v.v.).
Thực-sự không phải vậy! Thực-sự, ngay những sản-phẩm loại
này vẫn cần đến lịch-sử, như ta thấy báo Hợp Lưu vẫn có những bài về lịch-sử
cận-hiện-đại của Vũ Ngự Chiêu hay về văn-học-sử, đôi khi rất xa xôi, của Nguyễn
Phạm Hùng, Giáo-sư tại Đại-học Hà-nội. Họ chỉ kỵ nói đến những chuyện mà có thể
xem là đụng chạm với chế-độ đương-thời trong lúc này để có thể “hợp lưu” trên
mặt trận văn nghệ “phi-chính-trị.”
Song nếu xem được những bài như của Nguyễn Phạm Hùng về “Nam
Quốc Sơn Hà” và “Phạt Tống Lộ Bố Văn” của Lý Thường Kiệt hoặc về “Dụ Chư Tỳ
Tướng Hịch Văn” (còn được biết ngắn gọn hơn dưới tên “Hịch Tướng Sĩ”) của Trần
Quốc Tuấn là có ứng-dụng đến cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay thì tại sao
lại phải quay lưng, tránh né những sự thực của một quá-khứ gần gũi hơn nhiều và
thậm chí còn ứng vào ngay thực-tế của Việt-nam hôm nay?
Ta đọc tin hàng ngày, thấy những chuyện “chướng tai, gai
mắt” như xảy ra với Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Tiến Trung, Hồ Thị
Bích Khương, Lê Công Định, hay Cù Huy Hà Vũ mới đây thì thử hỏi loại tin nào,
loại kinh-nghiệm nào ứng-dụng hơn đối với cuộc sống của chúng ta hôm nay:
chuyện Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay chuyện “học tập cải tạo” của các đàn
anh chúng ta?
Tôi là một con người may mắn. Suốt một đời người gần 3/4 thế-kỷ, tôi chưa
bị tù tội tới một ngày chứ nói gì đến chuyện đi “mút mùa” 5-3 “tờ lịch” hoặc
lại còn bị kiên-giam nhiều ngày như Phan Nhật Nam hay một số tác-giả H.O. mà ta
có dịp đọc.
Vậy thì tại sao tôi vẫn tìm đọc đến các tác-giả như Song Nhị
trong cuốn sách ra mắt hôm nay, Nửa thế kỷ Việt Nam?
Phải chăng vì đó là kinh-nghiệm tập-thể của một dân-tộc mà
tôi là một thành-phần trong đó nên không thể tự-loại-trừ mình ra khỏi
được? Nói cách khác, nếu cái vinh cái
nhục của một người Quốc-gia như anh Song Nhị cũng là cái vinh cái nhục của tôi
thì cái đau, cái uất của anh sau khi mất miền Nam cũng phần nào là cái đau, cái
uất của chính tôi tuy nói như người ta mô-tả trong tiếng Anh, đó là “a
vicarious pleasure, a vicarious experience,” một thứ “thú đau thương”, vay mượn
ở kinh-nghiệm những người sống thật qua những kinh-nghiệm tù đày đó. Để làm
gì? Thưa, để hiểu hơn cái chế-độ hiện
vẫn còn đang ngự-trị trên quê hương chúng ta, để thông-cảm hơn với những người
hiện đang bị tù đày như các tác-giả H.O. của chúng ta năm xưa.
… Nếu một sản-phẩm như Hợp Lưu, Da Màu hay
Talawas có quay lưng vào cái thống-khổ của dân-tộc vào lúc này, hôm nay, nghĩa
là không đá động gì đến những dân oan, đến những vi-phạm nhân-quyền trắng trợn
ở quê nhà, dù nhân danh cái gì đi nữa (tỷ-dụ, sự hòa-hợp dân-tộc), thì một
người bình-thường như tôi vẫn muốn được học kinh-nghiệm của người đi trước, của
người chẳng may rớt vào vòng tù tội thay cho tôi để tôi hiểu biết xã-hội,
dân-tộc của tôi hơn.
Đó là
lý-do tôi tìm đến đọc cuốn sách ra mắt ngày hôm nay, “bút-ký, tự-truyện” Nửa
thế kỷ Việt Nam
của tác-giả Song Nhị.
…….
“Tôi
đã viết và đã xóa bỏ từng dòng. Tôi đã viết và đã xóa bỏ từng trang. Tôi đã xóa
bỏ nhiều lần như vậy. Một bài viết ngắn [. . .] cho tới hôm nay… đã chẵn mười
năm!”.
Tác-giả
mở đầu sách của anh như vậy. Như thế hẳn không phải là một tác-phẩm bôi bác mà
là một tác-phẩm có nhiều đắn đo, cân nhắc.
Các
chuyện anh viết, “mười năm góp nhặt, suy nghĩ, đắn đo,” sau một thời-gian bỗng
“những cá biệt, tản mạn đó lại tạo nên một bố cục chặt chẽ, sống động, rất
thật trên một đường trường lịch sử nửa thế kỷ Việt Nam.”
Vậy ta
hãy thử xem những “cá biệt, tản mạn” của anh có những gì?
Chương
đầu, “Giữa một miền quê hiền hòa”, nói về những ngày thơ ấu dễ thương của anh
“trên đồng ruộng, ngồi trên lưng trâu, hai mùa lạnh buốt thấu xương, nắng cháy
da người” ở Nghệ Tĩnh. Rồi đi học, rồi yêu, nhưng phải trốn sang Lào với
gia-đình sau khi chứng-kiến (Chương II) - Cuộc Cải Cách Ruộng Đất “long trời lở
đất” ở quê nhà.
Chương
III là nói về cuộc vượt biên sang Lào, với gia-đình được sự giúp đỡ của một
cựu-sĩ-quan Pathet Lào, và Chương IV cho biết về những ngày tương-đối yên lành
ở Lào trước khi bị CS xâm-nhập….
Từ
Chương V trở đi là cuộc sống của tác-giả và gia-đình trong một miền Nam tự
do sau khi bị “trục xuất” từ Lào về. Được ăn học tử tế rồi bị lôi cuốn vào
những phong trào sinh-viên bị CS lũng đoạn, tác-giả mô-tả những ngày tranh đấu
không riêng gì ở Trường Đại-học Vạn Hạnh chống lại phía bên kia mà còn lan ra
khắp các khoa ở Đại-học Sài-gòn. Chương
này và chương sau (khoảng 50 trang) đối với riêng tôi có thể xem là hấp dẫn
nhất….
Từ đó,
tác-phẩm nhảy vọt qua Chương VII
(“Miền Nam, Cơn Lũ Nghịch
Thường”) nói đến những ngày cuối cùng của miền Nam…. Đó là uyên-nguyên của
kinh-nghiệm “học tập cải tạo” sau đó của tác-giả, được mô-tả cặn kẽ với đầy đủ
cả các tài-liệu…
Chương
VIII với những “đợt ‘chuyển quân’ bằng máy bay ra Hà Nội,” “chuyến tàu Nam Bắc”
với những “số phận lênh đênh.”
Chương
IX riêng bàn về trường-hợp “Bùi Đình Thi” và chiêm-nghiệm về “nhân duyên” và
“nghiệp quả” trong đó tác-giả cũng dành nhiều ngậm ngùi cho người đàn bà
nạn-nhân khổ-sở là vợ Bùi Đình Thi.
Chương X
nói về một số trại tù khá khắc-nghiệt ở miền Bắc nhưng cuộc Trung-Cộng tràn
quân qua biên-giới (tháng 2/1979) đã buộc CS phải “chuyển quân” một lần nữa từ
các trại tù như Nam Hà hay Cổng Trời về những trại như Thanh Cẩm hay Lam Sơn
(tức Lý Bá Sơ “danh bất hư truyền” về mặt dã-man từ thời kháng-chiến chống Pháp
để rồi cuối cùng cũng được trở về Nam (Chương XIV, “Châu về Hiệp Phố”).
Xen kẽ
trong những trang này là nhiều kinh-nghiệm rất sống động như “Làm thơ trong tù”
(Chương XI), “Biểu tình tuyệt thực, Rừng vang tiếng hát” (Chương XII) nói lên
sự bất khuất của người tù miền Nam, và “những cảnh huống [khác] trong tù”
(Chương XIII) với đầy đủ những cảnh “hỉ, nộ, ái, ố, dục” ghi lại với một ngòi
bút khá công-minh.
Sách
cũng kết thúc bằng một số chuyện thú vị như “Nghệ sĩ Thành Được và cuộc vượt
ngục tập thể FULRO” thành công, và một số gương bất khuất của người tù đáng lưu
danh hậu-thế.
Nhưng
giá trị không nhỏ là Chương XV (“Hy vọng trong màn đêm, Ánh sáng cuối đường
hầm”) là chương nói về sự vận-động của một số tổ-chức hải-ngoại mà hàng đầu là
Hội Gia-đình Tù-nhân Chính-trị VN của bà Khúc Minh Thơ làm việc với những
nhân-vật như Đại-sứ Robert Funseth để có chương-trình H.O.
Phụ-lục
của sách còn mang một hồ-sơ thật đầy đủ với tài-liệu và hình ảnh mà tác-giả thu
thập được để cho mai này ai muốn xuyên-tạc về chương-trình đón cựu-tù-nhân
chính-trị của CSVN sang Mỹ cũng không thể dễ dàng phủ-nhận.
Xuyên
suốt cuốn sách là một thái-độ rất thận trọng, nhưng không kém phần tự-trọng nói
lên được tất cả cái hào-hùng của một quân-đội tuy ngã ngựa và chịu nhiều đầy ải
song không bao giờ mất đi cái tính người và tình người của một quân ngũ có ăn
học và và đã từng biết thế nào là tự do.
Nguyễn
Ngọc Bích
Ngày 13
tháng 11, 2010
James Lee Community Center, Falls Church, VA
No comments:
Post a Comment