T
|
rong lần tái bản thứ ba quyển Nửa Thế Kỷ Việt Nam, tôi muốn
thêm một chương về một thể chế đã tồn tại suốt 20 năm, một giai đoạn ngắn ngủi
so với chiều dài lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, giai đoạn lịch sử hai mươi năm (1955
-1975) ấy, nếu đem so sánh, cân nhắc trong thời kỳ lịch sử Việt Nam cận đại,
khi đất nuớc phân tranh hai miền Nam Bắc, tình tự dân tộc phân hóa vì ý thức hệ
Quốc Cộng, người dân miền Bắc phải sống dưới chế độ cộng sản độc tài hà khắc,
ngược lại, người dân miền Nam được hít thở không khí tự do, được hưởng các
quyền căn bản đúng theo quy ước nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Tôi lớn lên qua tuổi thiếu niên, từng chứng
kiến và là nạn nhân những vụ đàn áp hà khắc dưới chế độ cộng sản, vượt biên,
chạy trốn con người, khỏi quê huơng bản quán sau CCRĐ. Từ trước và sau năm 1954
tôi đã từng chứng kiến, tại miền Bắc, CS
tuyên truyền đầu độc người dân bằng những luận điệu xảo trá hoang đường
rằng, dưới sự cai trị của Ngô Đình Diệm, miền Nam là một địa ngục. Người miền
Bắc di cư vào Nam
phải giết con nhỏ lấy thịt làm giò lụa bán để sống. CS trưng bày trong phòng
học, tuyên truyền đầu độc những đầu óc non dại bằng những tấm bích chương vẽ
hình một quái vật mình chó, đầu người, mặt Diệm.
Tôi mang ấn tượng đó sang Lào. Khi đến nhà một
người Việt, chủ nhân lò bánh mì duy nhất trong tỉnh, nhìn thấy ảnh TT Diệm treo
trang trọng trên bức tường phòng khách, tôi đứng lặng người, như vừa tỉnh một
cơn mê. Từ đó, dù chưa biết gì về SG, chưa biết gì về miền Nam, về chế độ, lòng
tôi như rộn rã về một cuộc đời mới. Và tôi mơ ước được sớm trở về miền Nam.
Tháng Tư năm 1960 rời Lào về Sài Gòn, tôi thực
sự đuợc sống một thời hăm hở, tự do bay nhảy, học hành và thành đạt. Trong khi,
tôi không bao giờ quên được tuổi thơ hãi hùng lúc sống ở quê nhà, nhất là từ
cuộc CCRĐ. Tôi lại nhớ nằm lòng những gì bố tôi kể lại những quãng đời ông sống
dưới chính thể quân chủ nhà Nguyễn, dưới thời thực dân Pháp đô hộ, và thời trai
trẻ là đảng viên đảng CS Đông dương, bí thư chi bộ thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Những lần với gậy tầm vông, cùng các đồng chí đột kích đồn Tây, cõng đồng đội
bị thương chạy thoát, máu dính đầy tay chân, đầu cổ, về nhà đúng lúc mẹ tôi
chuyển bụng sinh anh cả tôi.
Một sự việc tôi không thể quên, bố tôi kể những
lần theo các cán bộ cấp trên về, kéo đến từng nhà “có máu mặt”, có của bắt trói
treo lên xà nhà, quấn dẻ thấm dầu hôi vào gót chân
khổ chủ để khảo của, bắt đưa vàng bạc “hiến tặng” cho “tổ chức”. Người khổ chủ
cuối trong lần khảo của ấy là chính
bà nội tôi. Bố tôi sửng sốt, lý luận, van xin, bà nội tôi mới thoát nạn. Từ tấm
mặt nạ đó rớt xuống, lộ rõ bộ mặt tổ chức gian tà độc ác, bố tôi dần dần rút
lui và ly khai khỏi đảng.
Trong khi đó, một ông “quan Tây” từ huyện đi
ngang qua làng tôi thấy một cây cầu mới làm, có một thanh ván bìa gỗ lim bắc ngang qua, viên quan người Pháp liền triệu
tập Lý Trưởng và các viên chức hào cựu trong xã lại truy hỏi tấm gỗ lim
ấy lấy từ đâu? Ai khai thác gỗ qúy trong rừng? Có giấy phép của Thủy lâm không?
Chuyện Tây thực dân bảo vệ rừng cho xứ Annam đô hộ, so với các chế độ về
sau quả là… chuyện lạ!
Những gì bố tôi kể tôi nghe; những gì tôi tận
mắt chứng kiến, những gì tôi và gia đình tôi trực tiếp hứng chịu qua các chính
sách thuế nông nghiệp, truy tô, đấu tố, xử tử, khủng bố, giam cầm… tất cả như
thẩm nhập vào tâm trí để tôi xác quyết miền Nam, với hai chế độ đệ Nhất và đệ
Nhị Cộng Hòa là vùng đất hứa cho những ai sống sau bức màn sắt, dưới chế độ độc
tài toàn trị của đảng CSVN.
QUỐC GIA VIỆT NAM
Sau “100 năm nô lệ giặc Tây”, từ năm 1948 Việt Nam là một quốc gia quân chủ Lập hiến thuộc Liên hiệp Pháp tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ, Thủ đô đặt tại Sài Gòn, Quốc trưởng là cựu hoàng Bảo Đại. Tồn tại từ đó cho đến năm 1955.
Toàn bộ các đơn vị quân đội Pháp triệt thoái
khỏi miền Nam
về nuớc.
Các lực lượng Cộng sản ở miền Nam tập kết ra
miền Bắc. Quân đội Việt Minh tiếp thu Hà Nội. Miền Bắc đặt dưới sự cai trị của chế
độ độc đảng CSVN, tiến hành cuộc chiến thôn tính miền Nam từ thập niên
60. .
Sau Hiệp định Geneve 20-7-1954, Ông Ngô Đình
Diệm về nước, nhận lãnh một gia tài miền Nam tan hoang vì chiến tranh, một xã hội băng
hoại với những “thập loại sứ quân” từ Bảy Viễn, Ba Cụt đến Kim Chung, Đại Thế
Giới, Bình Khang. Mỗi lãnh chúa chia nhau chiếm hữu từng vùng lãnh thổ, hoạt động
thổ phỉ ngoài vòng pháp luật. Ông Diệm vừa dẹp loạn an dân, đưa giang sơn về
một mối; vừa lo định cư cho gần một triệu đồng bào di cư từ Miền Bắc.
Giai đoạn những năm đầu của đệ nhất cộng hòa,
Chính trị ổn định, Xã hội nề nếp, Văn Hóa, Giáo dục quy củ và thăng tiến ngoạn
mục.
Nhưng rồi xáo trộn đã liên tiếp xẩy ra chỉ vì
những kẻ “nội thù”, những chính khách sa lông, những chính trị gia nửa mùa,
những lãnh tụ đảng phái tham lam quyền lực mù quáng, không viễn kiến, thiếu tầm
nhìn về hiểm họa cộng sản, về một tình thế chính trị bất ổn.
Trong khi miền Nam đang lúc vừa xây dựng vừa
kiện toàn một xã hội và thể chế ổn định để đối đầu với hiểm họa cộng sản đã
chiếm nửa nước, thì đảng phái lại kéo quân đi lập chiến khu Ba Lòng chống chế
độ, chống phá những nổ lực cấp thiết cho sự tồn tại và phát triển của miền Nam.
Một lòng thì yên ổn. Hai lòng, từ ly thân đến ly dị, “Ba Lòng” làm sao có thể
tồn tại?
Ngày 20 tháng 12 năm 1960,
CS thành lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng miền Nam”, trước đó một tháng, ngày
11-11-1960 Trần Đình Lan, Vương văn Đông cấu kết các phần tử phản loạn làm đảo
chánh, ném bom Dinh Độc Lập. Chế độ mặc dầu vẫn đứng vững, tiếp tục cuộc chiến
đấu chống CS xâm lăng, nhưng cuộc đảo chính là một “quả đấm thôi sơn”.
Năm 1963, mượn cớ “chế độ đàn áp Phật Giáo”, CS
và đám cơ hội đã dấy động những cuộc biểu
tình liên tục, ngày càng quy mô “ác
liệt”, với những cuộc đình công bãi thị, những vụ tự thiêu (*), tác động
vào lương tâm các chính phủ và nhiều người, trong và ngoài nước.
Đến đây ly nước lạnh đã tràn. Mặc dù đoàn điều
tra Liên Hiệp Quốc đã đưa ra kết luận không có tình trạng đàn áp Phật giáo và
kỳ thị tôn giáo tại miền Nam VN, Mỹ và CSVN không hẹn mà đã đồng hành trong âm
mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chính do Mỹ sắp đặt với sự kích động, cổ
vũ của CS thông qua Phật giáo Ấn Quang.
Dư luận cho rằng, lý do sụp đổ của nền Đệ Nhất
Cộng Hoà là do chính sách “gia đình trị” và việc đàn áp Phật Giáo của chính
quyền TT Diệm. Nhưng nguyên nhân sâu xa của cuộc chính biến lịch sử nầy,
như những gì người ta nhìn thấy lúc bấy giờ, như kết kuận của phái đoàn điều
tra LHQ và theo như những tài liệu của Mỹ được giải mật, cùng hồi ký của những
người tham gia cuộc đảo chánh, thì nguyên nhân căn bản khiến Mỹ muốn loại bỏ
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, là vì T.T Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đổ quân Mỹ ào
ạt vào miền Nam Việt Nam, theo chủ trương của các chính khách diều hâu tại Hoa
Thịnh Đốn.
Sư sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là khởi đầu
một đường trượt liên tục suốt hơn mười năm, dẫn tới sự sụp đổ của Miền Nam Việt
Nam.
Ngày nay, nhiều chiến lược gia và các nhà nhận định thời cuộc cho rằng có ba
nguyên nhân chính đưa tới thảm họa 30.4.1975:
- Một là việc Lật đổ Chánh Quyền T.T Ngô Đình
Diệm, và việc bãi bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược.
- Hai là việc Mỹ áp lực VNCH giải thể Qũy Tiết
Kiệm Quân Đội, một cơ cấu tài chánh, có thể mỗi thập niên tích lũy cho Ngân Quỹ
của QL/VNCH tối thiểu 12 tỷ đồng (không kể khoản tiền lời sản sinh). Sự kiện này
làm hụt hẫng niềm tin của quân nhân các cấp trước một việc làm mờ ám và táo bạo.
Cùng lúc, Tín Nghĩa Ngân Hàng cũng bị giải thể và dân biểu Nguyễn Tấn Đời bị bắt
giam.
- Ba là việc Mỹ phủi tay trước trách nhiệm can
thiệp vào cuộc chiến ngay từ đầu, vừa bó tay QL/VNCH, vừa tạo nên một tâm lý hoang mang tiêu cực trong nhân dân và
quân
đội miền Nam. Cuối cùng là cuộc triệt thoái
một cách hỗn loạn và bi thảm khỏi Cao Nguyên vào tháng 3/1975.
* Hiện nay trên các trang mạng xã hội và trong
nhiều tài liệu, đã trưng hình ảnh, bằng chứng chiếc xe chở HT Thích Quảng Đức
đến góc đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt
(nay là Nguyễn Đình Chiểu - CM tháng Tám) là xe của ông Tôn Thất Hối, (bố vợ Trần Quang
Thuận) và người rưới xăng lên đầu, mình và châm lửa đốt HT Thích Quảng Đức là
Nguyễn Công Hoan, dân biểu VNCH, một VC nằm vùng.
Ngày đó tôi được chứng kiến tại chỗ, từ phút
đầu tiên HT Thích Quảng Đức tự thiêu.
Được một người quen, GS Nguyễn Hưng Nhân báo
cho biết, sáng sớm hôm đó tôi cỡi chiếc xe Velo Solex vừa đến góc đường, đoàn tăng ni cũng đã từ hướng ngã tư đường
Cao Thắng Phan Đình Phùng (Ng. đình Chiểu) hướng tới Lê Văn Duyệt (CMT8).
Đoàn rẽ trái vào khoảng trống góc đường LVD - PĐP, trước sứ quán Cambodge, đối
diện là garage sửa xe hơi, một bên là cây xăng Caltex. Tôi đứng bên cây xăng
nhìn sang, chỉ cách mặt đường khoảng 4-5 mét.
Lúc đó tôi thấy một vị sư được dìu xuống xe, có
người dẫn đi mấy buớc, vị sư ngồi xuống thế tọa thiền. Xung quanh người ta tự
động dàn thành một vòng tròn, số đông tăng ni, xen lẫn là những cảnh sát mặc
cảnh phục màu trắng đứng xem kẽ. Khi lửa bốc cháy, nhiều bà Phật tử sụp xuống
lạy, khóc la. Nhưng tuyệt nhiên không có một người nào, kể cả cảnh sát xông ra
cứu chữa. Tôi cau mày đứng nhìn cho đến khi HT. Thích Quảng Đức ngả người lật
ngửa ra trên nền xi măng, tôi dắt xe chạy về nhà, kể câu chuyện với bố mẹ tôi.
Lúc đó tôi có nhìn thấy nhưng không biết người đổ xăng châm lửa là ai. Và sự
việc xẩy ra quá nhanh khiến tôi không kịp suy nghĩ và ghi nhận.
Sau đảo chánh, Ông Nguyễn Hưng Nhân có tặng tôi
một ấn
bản tài liệu, ghi lại toàn bộ hình ảnh (màu)
cùng bài viết về cuộc tự thiêu. Tập sách khổ lớn (bằng 1/2 khổ nhật báo).
Ngày sang Mỹ tôi để lại cho ông anh cả tôi, nay
không biết còn hay mất.
Trước nay đã có nhiều bài viết phân tích, nhận định về biến
cố trọng đại này. Ký giả David Halberstam từng đặt dấu chấm hỏi: Làm thế nào để
Thích quảng Đức có thể tự thiêu đến chết mà không hề cử động cơ bắp? (How was
Thich Quang Duc able to burn himself to death without moving a muscle?).
Ngày nay mọi việc đã rõ trắng đen, tại thành
Hồ, CS đã dựng tượng tướng Dương Văn Minh và Hoà Thượng Thích Quảng Đức (tục
danh Lâm Văn Túc), xác nhận là người của CS và tôn vinh họ là những người có
công với cộng sản.
**
Lại một lần nữa, một số tướng lãnh làm cuộc đảo
chánh ngày 1-11- 1963, kết liễu sinh mệnh hai anh em TT
Ngô ĐìnhDiệm và ông cố vấn Ngô đình Nhu, kết liễu nền đệ Nhất Cộng Hòa.
Theo LS Trương Phú Thứ, “Thực chất cuộc
đảo chính là cuộc tạo phản, nhằm thỏa mãn thú tính của một số cá nhân tham vọng
bè phái, và nhất là phục vụ quyền lợi và đòi hỏi của ngoại bang. Cuộc đảo chính
đã tạo ra hỗn loạn triền miên trong sinh hoạt chính trị ở miền Nam, gây chia rẽ
trầm trọng giữa các thành phần dân chúng, ngay cả trong quân đội…”.
Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã gọi bọn tướng lãnh ấy
là lũ côn đồ "A Goddamn Bunch Of Thugs". Tháng 5 năm 1961, ông
Johnson đã từng đưa ra nhận định: “Tổng Thống Ngô Đình Diệm là Winston
Churchill của Đông Nam Á”. Sau cuộc đảo chính 1-11-1963, Phó TT Johnson nói:
“Tôi đã bảo đừng đảo chánh”. “Chúng ta đã giết Tổng Thống Diệm để tạo thêm bất
ổn chính trị không lường”.
Lịch sử là một cuộc tái diễn không ngừng (“L’histoire est
perpétuel recommencement”). Lịch sử sẽ soi rọi quá khứ để người hôm nay và ngày
sau không bước vào vết xe cũ. Sự thật đã được phơi bày, lịch sử phải đươc phân minh.
Để bạn đọc hôm nay và hậu thế không phải mù mờ suy đoán, xin
ghi lại dưới đây những dữ kiện trong các hồ sơ tối mật của Mỹ đã được bạch hóa
vào năm 1998, trong đó có "Bản ký tự” từ một cuốn băng giải mật được thu
tiếng tại tòa Bạch Ốc vào chiều ngày Thứ Hai 04 tháng 11, 1963 (hơn một ngày
sau khi anh em ông Diệm bị giết), cuốn băng hiện được lưu trữ tại Thư Viện Tổng
Thống Kennedy ở Boston, nội dung:
Tổng Thống John Kennedy đã nhận ông là
người có can dự ngay từ đầu về kế hoạch đảo chánh và khai rõ những ai là “tòng
phạm”. Qua nguyên văn lời TT Kennedy được thu băng chỉ kéo dài 5 phút, kể cả
gần 2 phút nói chuyện với con":
1./- "Cuộc đảo chánh đã xẩy ra tại Sài Gòn vào cuối
tuần. Nó là tột đỉnh của cuộc thảo luận trong ba tháng về một cuộc đảo chánh,
một cuộc thảo luận đã gây chia rẽ trong chính quyền ở đây và ở Sài Gòn".
2./- "Tôi cảm thấy chúng ta phải gánh vác rất nhiều
trách nhiệm vì nó đã khởi sự bằng điện văn (mang số 243 được gửi vào cuối tháng
Tám, chính xác là vào hồi 9 giờ 36 phút tối
thứ Bảy, 24 tháng 8, 1963, từ Bộ Ngoại Giao Mỹ ở, cho Đại sứ Lodge ở Sài
Gòn) của chúng ta gửi vào đầu tháng Tám trong đó chúng ta gợi ý cuộc đảo
chánh".
3./- "Theo nhận định của tôi điện văn đó đã được thảo
quá tệ, đáng lẽ nó không bao giờ được gửi đi vào một ngày Thứ Bảy. Đáng lẽ tôi
đã không nên chấp thuận nó mà không qua một cuộc thảo luận bàn tròn để qua đó
McNamara và Taylor
có thể trình bầy quan điểm của họ. Trong khi chúng ta đã sửa lại tầm mức của nó
trong các điện văn sau đấy, chính điện văn đầu tiên ấy đã khuyến khích Lodge
theo chiều hướng ông ta đã muốn tiến tới. Tướng
Paul Harkins tiếp tục
chống đối cuộc đảo chánh trên căn bản là nỗ lực quân sự
đang tiến hành tốt đẹp".
4./- "Tôi đã bị sốc về cái chết của Diệm và Nhu. Tôi
đã gặp Diệm với Thẩm
Phán Tối Cao Douglas nhiều năm trước. Ông
đã là người có cá tính ngoại hạng và trong khi ông trở
thành khó khăn với ta vào những tháng vừa rồi nhưng trong khoảng mười năm qua
ông đã giữ vững nước ông để duy trì được nền đôc lập dưới những nghịch cảnh rất
khó khăn".
5./- "Cách mà ông đã bị giết thật là kinh khủng. Vấn
đề bây giờ là liệu các tướng có thể đoàn kết với nhau để cùng xây dựng một
chính quyền ổn định hay là Sài Gòn sẽ bắt đầu, công luận tại Sài Gòn, trí thức,
sinh viên, vân vân sẽ chỉ trích chính quyền này như là áp bức và phi dân chủ
trong một tương lai không xa”.
6./- TT Kennedy thông báo (theo tác gỉa Đinh Từ Thức):
6/a. Phe chống đảo chánh gồm: "Tướng Maxwell Taylor,
Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, Tổng
Giám Đốc CIA John McCone".
6/b. Phe ủng hộ đảo chánh: "Bộ Ngoại Giao, dẫn đầu bởi
Averell Harriman, George Ball, Michael Forestal, Roger Hilsman.
6/c. Michael Forrestal chỉ là một thứ thiên lôi chỉ đâu
đánh đó của Averell Harriman.
7./- Harriman đã có biệt danh “cá sấu”. Tại bàn hội nghị,
mắt ông ta lúc nào cũng lim dim như mắt cá sấu nằm bên bờ kinh lạch, lâu lâu
“táp” một cái, con mồi khó thoát.
8./- Bobby Kennedy đã tặng ông ta một
con cá sấu nhỏ bằng vàng,
và nhân viên ông ta tặng một con bằng bạc, coi như kỷ vật “từ các nạn nhân”. Cá
sấu Harriman đợi hơn một năm, táp được anh em Cố TT Ngô Đình Diệm.
[Listening In: The Secret
White House Recordings of John F. Kennedy, The Kennedy Library Foundation;
Foreword by Caroline Kennedy and Introduction and Annotations by Ted Widmer.
Copyright 2012 The John F. Kennedy
Library Foundation, Inc. Published by Hyperion. [Theo tác giả Đinh Từ Thức
(DCVonline)]
Ý
Kiến Của Đảng Cộng Hòa Mỹ về cuộc đảo chính 1-11-1963
1./- Loại bỏ ông Diệm đã không đoàn kết được dân chúng sau
lưng các tướng lãnh, như là Washington
đã hy vọng. Mặc đầu New York Times đã ca tụng đảo chánh như là một cơ hội đẩy
lui cộng sản trên khắp các nẻo đường Đông Nam Á, nhưng sự thật trái ngược đã
diễn ra.
2./- Cuộc đảo chánh đã phá hủy kiến trúc được xây dựng
trong hàng chục năm, để lại một nhóm tướng lãnh tranh quyền thiếu kinh nghiệm
hay hậu thuẫn chính trị.
3.- Chỉ trong năm 1964, đã diễn ra bảy lần thay đổi chính
quyền. Không có lần nào theo đường lối dân chủ, và tất cả đều là kết quả của
một cuộc đảo chánh, dưới hình thức này hay hình thức khác. Những người kế nhiệm
ông Diệm thiếu uy tín của một lãnh tụ quốc gia, hay hình ảnh đáng kính nể của
một ông quan, đã không biết làm cách nào khác hơn là đẩy cuộc chiến vào tay Hoa
Kỳ. "Do đó, Việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam không phải là nguyên nhân, mà là
hậu quả của cuộc đảo chánh 1-11, 1963". [Theo Henry Kissinger
trong Diplomacy (Trích tác giả Đinh Từ Thức, Hồng Lĩnh ghi lại)]
ĐỆ NHị CỘNG HÒA 1967-1975
Sau ngày 1-11-63, khi nền đệ nhất Cộng Hòa chấm dứt, một
loạt biến cố chính trị tranh giành quyền lực giữa các phe phái và giới tướng lãnh diễn ra. Tháng 1 năm 1964
tướng Nguyễn Khánh đảo chính lật đổ “Hội đồng quân nhân
cách mạng” lên nắm quyền. Một chính phủ dân sự được thành lập với ông Phan Khắc
Sửu làm quốc trưởng và ông Phan Huy Quát làm thủ tướng trong một hoàn cảnh phức
tạp: tranh chấp giữa các đảng phái, các tôn
giáo, chiến tranh ngày một gia tăng, Mỹ ào ạt đổ quân vào Việt Nam để
ngăn chặn làn sóng đỏ. Phan Khắc Sửu - Phan Huy Quát trong một tình thế như vậy
không điều hành được chính phủ, từ chức, trao quyền lại cho các tướng
lãnh. Ngày 16-8-1964, tướng Khánh ban hành Hiến chương Vũng Tàu, tự phong Quốc
Trưởng, Thủ tướng, Tổng tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng QL/VNCH. Tháng 2-1965 hai tướng Thiệu Kỳ cùng hội đồng tướng lãnh
buộc tướng Khánh xuất ngoại sống lưu vong.
Ngày 19 tháng 6-1965 hai tướng Thiệu, Kỳ được quân đội đưa
lên lãnh đạo đất nước.
Cấu trúc của nền Hành chánh gồm hai cơ cấu: Uỷ ban Lãnh đạo
Quốc gia, và Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương. Chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo Quốc gia là
tướng Nguyễn Văn Thiệu; Chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương là tướng Nguyễn
Cao Kỳ. Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 3
tháng 9. 1965. 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần. Ngày 1 tháng 4 năm
1967 Quốc Hội tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Hiến pháp này
là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30 tháng 4 năm 1975.
Hiến pháp 1967 theo mô hình của nhà nước Hoa Kỳ, xác lập cơ
cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa rất hoàn chỉnh. Hiến pháp Việt Nam
Cộng hòa đã thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến.
Năm 1971, cuộc Tổng Tuyển cử thứ nhì
của Đệ nhị Cộng hòa. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai.
Hiệp định Paris ngày 11 tháng 1-1973, ký kết giữa bốn bên
tham chiến (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và
Việt Nam Cộng hòa), quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa phản
đối một số điều khoản trong hiệp định, nhưng phía Mỹ quyết định dứt khoát rút
quân, từ bỏ cuộc
chiến, đã gây áp lực chính phủ Việt Nam Cộng hòa chấp nhận ký kết hiệp định.
Sau khi Hoa Kỳ rút lui, CS Hà Nội mở các mặt trận quy mô
tấn công vào miền Nam.
Ngày 30-4-1975, Sài gòn thất thủ, cuộc chiến 20 năm chấm dứt. Toàn cõi Việt Nam lọt vào ách thống trị của tập đoàn độc đảng
cộng sản Việt Nam.
**
Đúng như nhận định (3) của Đảng Cộng Hòa Mỹ về
cuộc đảo chính
1-11-1963, những người làm đảo chánh, kế nhiệm TT Ngô Đình Diệm không có quá
trình kinh nghiệm chính trường, làm sao có uy tín của một lãnh tụ quốc gia, làm
gì có hình ảnh đáng kính nể của một ông quan.
Mười lăm năm có mặt ở miền Nam, dưới hai thời đệ nhất và đệ
nhị cộng hòa, kể cả gần mười năm trong nhà tù cộng sản sau 75, qua những gì
nghe thấy, qua những cọ xát ở ngoài xã hội và trong tù, tôi có thể đưa ra nhận
xét, một số tướng lãnh, chính khách, một số lãnh tụ (tôi không vơ đũa cả nắm)
không có kinh nghiệm với cộng sản và thiếu lý tưởng kiên định trung thành với
cuộc chiến đấu chống cộng, là kẻ cơ hội, thiếu tài năng, nên đã không cáng đáng
được trách nhiệm trước đại cuộc, phải trao công việc điều hành cuộc chiến vào
tay người Mỹ, để kết cục 10 năm sau người Mỹ phủi tay, phản bội đồng minh, trói
tay quân đội miền Nam, trao lãnh thổ VNCH với hơn ba mươi triệu người dân miền
Nam cho Cộng sản.
Tôi đồng thuận với ý kiến từ dư luận cho rằng “miền Nam VNCH thua CS là phải”.
Những người có ý kiến này không phải họ cho rằng CS tài ba đảm lược, mà nhận
xét chung VNCH thua vì hai hai yếu tố:
1 Thứ nhất.- VNCH theo thế chế tự do dân chủ. Tôn trọng và
bảo vệ các quyền căn bản của người dân. VNCH “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/
Lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Trong khi cộng sản chủ trương ngược lại, đem
hung tàn thay cho chính nghĩa/ Lấy cường bạo thay cho lòng nhân. VNCH chủ trương bảo vệ tài sản sinh mệnh
người dân,
trong khi cộng sản sẵn sàng moi gan, mổ ruột bất cứ người nào mà họ nghi ngại, không ưa; hoặc không làm vừa long
họ. CS chủ trương khủng bố, uy hiếp để răn đe, buộc mọi người phải tuân
theo họ.
T.T. Ngô Đình Diệm chết cũng vì “Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn”. Trong cuộc đảo chính 1-11-63, Khi Thiếu tá Duệ, Tham Mưu Trưởng Liên
đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thống xin Ông Diệm cho đem đại đội thuộc Lữ đoàn liên
quân phòng vệ phủ T.T lên Bộ Tổng Tham Mưu bắt nhóm đảo chính, T.T Diệm nói: “Không được. Hãy dành lực lượng và võ khí để
đánh Cộng sản. Người nhà không nên tàn sát lẫn nhau. Quân đội để đi đánh CS chứ
quân đội đi đánh quân đội à”.
Vị Thiếu tá nói, “thưa T.T không bắt họ thì mình chịu chết
sao”. Ông Diệm nói lại: “Chết thì đã sao”. Và TT Diệm đã chết vì lòng nhân, vì
đại nghĩa.
(Hai Cuộc Đảo Chánh, Phạm Văn Hưởng, Nguồn số
53, tháng 1/2012 trang 121”
2.- Thứ hai, đảng CSVN có một hệ thống kết nạp và kiểm soát
nhân sự rất chặt chẽ. Từ bộ phận đầu não, bộ chính trị và ban bí thư, đến các
nhân sự cấp dưới không cần kiến thức và tri thức mà chỉ cần niềm tin vào đảng
(dù đúng hay sai), lòng trung thành tuyệt đối và sự hy sinh quên mình. Thêm vào
đó là chính sách tuyên truyền nhồi sọ, tẩy não để người cán bộ, đảng viên khi
đã gia nhập hàng ngũ, họ trở thành giáo điều, trở thành những con ngựa bị bịt mắt, chỉ còn con
đường đi tới theo lằn roi của tên xà ích chính trị bộ.
Trong khi miền Nam VNCH hoàn toàn không có những điều kiện
căn bản như trên áp dụng cho nhân sự các cơ cấu chính quyền, dân cử và đảng
phái. Hàng ngũ công chức dân chính lỏng lẻo. Quân đội VNCH có tổ chức chặt chẽ,
trên dưới có kỷ luật, nhưng một số cấp chỉ huy không đủ kiến thức và năng lực,
thậm chí năng lực yếu kém, không có kinh nghiệm xương máu với CS, không ý thức
được hiểm họa CS, “xem cuộc chiến như tai trời ách nước” (Nguyễn Bắc Sơn), xem
con đường binh nghiệp là con đường tiến
thân, thậm chí dùng chức tước địa vị
để tranh thủ tư lợi. (Tướng bán gạo,
bán, thuốc
tây cho VC, tá dùng cả đoàn xe còi hụ để buôn lậu, dân biểu ăn cắp tượng Chàm, v.v..).
Thử hỏi có không lý tưởng, ý chí chiến
đấu và hy sinh quên mình?.
Bên cạnh đó, lãnh tụ và nhân sự các cấp lãnh đạo đảng phái cũng không phải là những đảng viên trung
kiên, không đặt cương lĩnh của đảng trên quyền lợi riêng tư, tự ái cá nhân,
thiếu đức hy sinh quên mình cho đại nghĩa…
Phần đông cựu tù nhân chính trị HO cảm thấy thất vọng trong
những năm tháng chung đụng, cọ xát với đủ thành phần, chiến hữu, đồng đội của
mình qua các trại tù cải tạo, khi chứng kiến một số quan “tai to mặt lớn”,
những quan chức tiếng tăm một thời, những mai vàng, mai bạc ngày nào lấp lánh
quyền uy, giờ đây trong bộ quần áo tù, đã lộ rõ bản chất của một con người, rất
người... tư cách bệ rạc. Những người này không
chỉ co rúm thủ thân, mà còn biểu lộ tư cách khúm núm, sợ hãi, tâng bốc kẻ giam
nhốt mình, khẩn cầu những ân huệ vật chất nhỏ nhặt tầm thường. Con số này chỉ
là thiểu số, nhưng là “con sâu làm rầu nồi canh”.
Một ít lãnh tụ đảng phái danh tiếng, từng là Nghị sĩ, là Bộ
trưởng Thông Tin vào tù làm ăng-ten “báo cáo cán bộ”, tuy chẳng có ai chết vì bị
rình rập báo cáo ấy, nhưng danh dự hàng ngũ Quốc Gia và tập thể tù cải tạo bị
xúc phạm, hoen ố dưới con mắt của đám cán binh CS.
Hiện tượng nhức nhối phổ biến nhất ở bất cứ trại tù cải tạo
nào, ngoài những người làm ăng-ten là đám "tự quản" đội trưởng, tổ trưởng trong tù. Họ là những chiến hữu,
là những đồng đội, là những người bạn ngoài đời, nhưng vào tù, một số ảo
tưởng được về sớm, được ban phát ân huệ, được hơn miếng khẩu phần, đã quay lưng
trở mặt với tập thể, hợp tác với quản giáo, cai tù hành hạ anh em đồng đội của
mình. Con số này khá đông. Vụ Bùi
Đình Thi là một điển hình.
Trên đây là những chi
tiết, những mảnh vụn, những viên sỏi, những vết đen trong toàn bộ 20 năm sinh hoạt chính trị
tồn tại của hai chế độ cộng Hòa miền Nam VN,
tiếp theo là những thể hiện cá nhân con người khoảng 20 năm sau 1975
trong các nhà tù Cộng sản.
Để tránh phiến diện trong bức tranh toàn cảnh
phải nêu lên một số con người và hiện tượng tiêu cực, nhưng điều chung
quyết khẳng định: thể chế dân chủ miền
Nam VNCH là một thể chế được xây dựng trên căn bản phân quyền, tự do dân chủ,
lấy nhân bản làm phuơng châm cho một nền hành pháp, lập pháp và tư pháp, xứng
đáng đứng ngang hàng với các quốc gia dân chủ tiến bộ của thế giới tự do.
Những mảnh vụn, những vết đen trong các xáo
trộn chính trị và con người... phần nào chứng minh chế độ dân chủ miền Nam khác
với chế độ độc tài tàn bạo cộng sản.
No comments:
Post a Comment