Truyện
Song Nhị
Trong số những người
tới thăm đất Thần Kinh mùa Xuân năm ấy có cả Trương Lưu, quê ở Gia Định, đậu cử
nhân thời Ngô Đình, được bổ làm quan Phó Tỉnh Phước Tuy.
Cuối năm Canh Tý, nạn giặc nổi lên đánh phá khắp nơi, nhất
là ở những vùng xa xôi thôn dã. Cuộc sống thanh bình an vui của người dân bỗng
trở nên hãi hùng vì những vụ khủng bố, bắt cóc, ám sát, giật mìn xe đò, đắp mô
chặn đường, phá cầu, ngăn sông, cản chợ... Ban ngày nông dân không dám đi làm,
sợ bị bắt đem vào rừng. Ban đêm đàn ông, thanh niên bỏ trốn; đàn bà, trẻ con ở
lại giữ ngôi nhà, mảnh vườn. Từ đó ruộng đồng bỏ hoang, ngành bán buôn thương
mại ế ẩm, đình trệ. Trường học ở thôn quê phải đóng cửa.
Để an dân và bình định hương thôn xã ấp, triều đình nhà Ngô
ban hành quốc sách ấp chiến lược. Trương Lưu được giữ chức Quản Hạt quận Mỏ
Cày. Nhiều quan chức mới được triều đình bổ nhiệm về các địa phương thi hành
quốc sách. Nhờ vậy, không bao lâu nạn giặc bớt hoành hành. Đám thảo khấu không
nơi ẩn náu phải bỏ về rừng rú.
Sau gần mười năm cuộc sống trăm họ được âu ca thái bình,
triều đình nhà Ngô bị diệt vong. Quốc sách ấp chiến lược bị phá sản, xã hội rơi
vào hỗn loạn. Các thế lực xúm nhau tranh giành ngôi vị, xâu xé quyền lợi, chầu chực ngoại nhân hầu vọng
tưởng miếng đỉnh chung. Những người tâm huyết với tiền đồ tổ quốc, với vận mệnh
dân tộc phải nản lòng nhụt chí, Trương Lưu từ quan về mở lớp dạy học, làm chủ
một nhà sách ở Sài Đô.
Từ khi triều đại nhà Ngô bị tận diệt, đất nước rơi vào tình
trạng suy vi, nhiễu nhương, loạn lạc. Nạn giặc do bắc Phương khởi xướng, điều
động, lợi dụng tình thế đó bành trướng thành một cuộc chiến tranh quy ước. Tình
hình đặt quốc sự vào thế một mất một còn. Phái Chánh Giáo, còn được gọi phái
Quốc Gia, bèn dựng lên triều đại Cộng Hòa Đệ Nhị. Triều đại này không có thế
thống nhất lãnh đạo. Trong hàng các quan chức đại thần không ít kẻ thiếu đức,
bất tài, xu nịnh lại được trọng dụng, ưu đãi, khiến nhân tâm lý tán.
Một số phần tử cơ hội lợi dụng sự bất an của lòng người nhảy
ra phá đám. Trong số này có mấy ông cố áo đen như Từ Lan Tín và mấy ông sư bà
vãi như ni Huỳnh Sen. Về sau người ta biết đám này được vào chầu rìa ở mấy cấp
chức địa phương thuộc phái Tà Giáo, dưới thời Hậu Cáo, nhưng chỉ một thời gian
ngắn là bị thất sủng, bị ngược đãi. Tình trạng đất nước đi tới chỗ rối ren, hỗn
loạn, thù trong giặc ngoài. Giặc tràn về cướp phá khắp nơi, từ thôn quê đến
thành thị. Đám ngoại nhân đỡ đầu tháo chạy. Cả thiên hạ chốn nháo. Hàng trăm
ngàn người chạy thoát thân ra ngoại quốc. Lúc bấy giờ có lão quan hưu Minh
Dương khờ khạo, tục gọi Minh Bự đã lợi dụng thế ngã nghiêng của cơ đồ xã tắc,
ra tay chiếm quyền. Minh Dương giữ ngôi vị được hai ngày đêm thì triều đình sụp
đổ, buộc trao quyền cho phái Tà Giáo. Đất nước lọt vào tay đám giặc. Trận bão
nghịch thường đổ ập xuống dân tộc Việt. Giới sĩ phu và hàng quan chức các triều
đại cũ bị phái tà giáo thẳng tay trả thù.
Trương Lưu nhờ treo ấn từ quan, giấu diếm lý lịch nên không
bị tập trung vào các đại lao xá lộ thiên ở rừng rú tận vùng biên giới Hoa Miên.
Năm Ất Mão nguyên niên của triều đại Hậu Cáo, Trương Lưu
tròn ba mươi tám tuổi. Chàng vẫn độc thân. Với cái tuổi xấp xỉ ở quãng đời “bất
nhi hoặc”, tính tình chàng rất điềm đạm. Sở thích thi ca, thích kết giao bằng
hữu và du ngoạn danh lam thắng cảnh nước nhà. Nhân có người bạn là nhà giáo dạy
lớp Cao Trung và Tú Tài ở Sài Đô dọn về phủ Thừa Thiên, chàng tiễn bạn về quê,
luôn thể du ngoan thắng cảnh cố đô mà chàng hằng ao ước. Trước khi đi, chàng
cẩn thận hối lộ viên hạ cán khu vực, một thứ chức trách phái tà đạo đặt ra để
theo dõi mọi hành vi của từng người dân, hầu khi trở về không bị điều tra,
không bị làm khó dễ.
Trong ba ngày ở Huế, chàng dành hết thì giờ vào thành nội
thăm cảnh cũ tích xưa. Nhìn thành quách rêu
phong, nhìn những đổ vỡ ngổn ngang của các công trình lịch sử ấy, nhìn
những dấu đạn còn loang lổ nơi các cột biểu trụ, nơi những thành lũy, những bức
tường, mùi thuốc súng như còn phảng phất đâu đó, chàng thấy buồn mênh mang, sâu
thẳm. Khi vào thăm điện Thái Hòa, đi qua khu cung cấm, đến lăng của các vua
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức..., chàng cảm thấy tràn đầy những mỹ cảm sâu xa.
Cảnh vật nơi này thật trầm mặc, mơ màng, u nhã. Đứng dưới bậc tam cấp trước
điện Thái Hòa nhìn lên, khách ngẩn ngơ trước cảnh uy nghi hùng vĩ của kiến
trúc, đất trời, tưởng như nghe tiếng linh thiêng của người xưa, của núi sông
vọng lại. Khi vào sân Bi đình thăm bia Thánh-Đức-Thần-Công, khách đi qua hai
hàng ngựa voi và mười vị quan đứng hầu, tạc bằng tượng đá, cảnh xôn xao một
thời như sống lại trong trí tưởng của khách du thưởng ngoạn.
Tâm hồn Trương Lưu chìm đắm trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên
nhiên. Lòng chàng dạt dào kính phục những bàn tay nghệ thuật kỳ công đã tạo
dựng những công trình kiến trúc tuyệt mỹ. Chàng thấy buồn man mác, xót xa trước
những rêu phong của thời gian, những đổ nát hoang tàn vì chiến tranh tao loạn,
vì sự phá phách vô tâm, tư lợi. Khách đến đây không khỏi bồi hồi khắc khoải
giữa nơi hội tụ của một giang sơn, một chặng dài lịch sử mà “tang tóc mỉm cười,
vui tươi thổn thức”. Bất giác chàng thở dài, ngậm ngùi nhẩm đọc bài thơ chất
chứa cả nỗi lòng hoài nhiệm Thăng Long của bà Huyện Thanh Quan:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Chàng trải hồn về tận cõi xa thẳm của thời gian, mường tượng
bao thời đại hưng vong của lịch sử. Lịch sử thời xa xưa, lịch sử thời hiện đại,
lịch sử được viết bằng máu của biết bao thế hệ con người yêu đất nước, yêu
giống nòi; và lịch sử cũng dính máu của những tên phản bội, của những kẻ vong
thân. Những gì còn tồn tại, đó là giang sơn gấm vóc, là di sản quý báu của tiền
nhân.
VÀ HUẾ ƠI, PHẢI CHĂNG ĐỊNH MỆNH ĐÃ AN BÀI, HUẾ ĐÃ CHỨNG KIẾN
NHỮNG BIẾN CỐ BI AI CỦA THỜI CUỘC, ĐỂ TỪ HUẾ, LỊCH SỬ BƯỚC ĐI THEO NỖI LÒNG
QUẶN ĐAU CỦA HUẾ. NHỮNG BẬC QUÂN VƯƠNG ÁI QUỐC HÀM NGHI, DUY TÂN BỎ NGAI VÀNG
ĐI CỨU NƯỚC, BỊ ĐẦY ẢI, BỊ LƯU VONG. MỘT TRĂM NĂM VIỆT NAM NÔ LỆ. CUỘC
ĐỀ KHÁNG CỦA PHẬT GIÁO NĂM QUÝ MÃO. MỘT TRIỀU ĐẠI CÁO CHUNG. NHỮNG MỒ CHÔN TẬP
THỂ HÀNG NGHÌN NGƯỜI CON DÂN VIỆT ƯU TÚ VÀO TẾT MẬU THÂN BỞI BỌN ĐAO PHỦ THỦ VÔ
THẦN, VÀ GIỜ ĐÂY HUẾ XƠ XÁC, ĐIÊU TÀN SAU MỘT TRẬN CUỒNG PHONG THỜI CUỘC.
Chàng suy nghĩ miên man, chợt nhớ hai câu thơ:
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương (*)
Chàng đứng lại nhìn hàng tượng đá, nhìn thật lâu pho tượng
đứng hàng thứ ba. Khuôn mặt, đôi mắt và miệng tươi cười thật sống động. Pho
tượng cũng như đang đứng nhìn chàng. Chàng vái chào pho tượng và khấn bẩm:
- Tiểu sinh xin kính bái thượng quan. Tiểu sinh là Trương
Lưu quê ở Gia Định. Hôm nay đến kinh thành để chiêm ngưỡng giang sơn của các
triều đại và viếng lăng tẩm của các vị quân vương. Tiểu sinh như được sống lại
trọn vẹn với những năm tháng xa xưa, những thành quách, cung điện uy nghi, ngựa
xe rộn rã. Ôi, vàng son dĩ vãng!
Khấn bẩm xong, chàng lấy bút đề lên sau lưng pho tượng hai
câu thơ:
Trăm năm thân đá dầm mưa nắng
Nghìn kiếp lòng vàng gội núi sông.
Đề xong thơ, chàng ra trước pho tượng chắp tay vái chào từ
biệt.
**
Tại nhà người bạn cạnh khách sạn Hương Giang, đêm ấy Trương
Lưu thấy một người đàn ông mặc áo dài, quần lụa, đội mũ cánh chuồn, mang đai
hàm tứ phẩm, đi giày Gia Định đến nói với chàng:
- Bẩm Trương cử nhân, quan Phủ Doãn cho tiện nhân đến đây
thỉnh ngài quá bộ đến tư thất để hàn huyên.
Trương Lưu vái chào lễ phép người lạ mặt, hỏi:
- Bẩm tiên sinh, chẳng hay quan Phủ Doãn tính danh là gì?
- Ngài họ nguyễn, tục danh Lãng Nguyên.
- Tiểu sinh rất hân hạnh được thượng quan hạ cố.
Chàng theo chân người đàn ông bước ra cổng. Ở đó có một chiếc
cáng che lộng điều đã đợi sẵn, có bốn lính thú khiêng đi. Khi tới cổng tam
quan, tư dinh quan Phủ Doãn, chàng được lính hầu mời vào. Quan Phủ Doãn đã đứng
đợi ở cửa phòng khách, bước lại bắt tay chàng tươi cười:
- Ta cho mời tiểu huynh đệ đến đây là để ngỏ ý cảm ơn về hai
câu thơ mà tiểu huynh đệ đã tặng ta ban chiều. Ở thời buổi này mà ta có một
người hiểu được tâm trạng của ta cùng hàng quần thần cách đây gần hai thế kỷ và
biết trân trọng những giá trị quý báu của di sản tiền nhân để lại thật là hiếm
quý lắm thay.
Trương Lưu vòng tay, cúi đầu thủ lễ:
- Bẩm thượng quan quá khen. Tiểu bối thật e thẹn cho tài hèn
sức mọn của mình.
- Quan Phủ Doãn cười sảng khoái:
- Tiểu quynh đệ thật quá khiêm nhường. Ta biết. Ta biết.
Nào, mời vô đây ta đàm đạo. Tại tiểu sảnh đường, hai người,
một già, một trẻ, một xưa, một nay cùng nhau chuyện trò rất tương đắc. Quan Phủ
Doãn hỏi về những danh lam thắng cảnh đất Thần Kinh mà Trương Lưu đã thưởng
ngoạn. Chàng Kính đáp
- Bẩm thượng quan, trong mấy ngày ở cố đô, tiểu bối đã được
đến thăm những thắng cảnh như Trùng Minh Viễn Chiếu mà ngắm trăng nơi lầu Minh
Viễn. Vĩnh Thiệu Phương Văn mà ngắm hoa nơi Vạn Tự Hồi Lang. Tịnh Hồ Hạ Hứng mà
hóng mát, bơi thuyền, câu cá và hái hoa sen nơi hồ Tịnh Tâm. Thư Uyển Xuân
Quang mà dự yến tiệc và ngâm vịnh thi ca. Ngự Viên Đắc Nguyệt mà lễ bái nơi
chùa Hoàng Ân. Cao Sinh Các Lương mà hóng gió nơi lầu Hải Tịnh. Trường Minh
Thủy Điểu mà dạo chơi, tiêu khiển. Thường Mậu Quan Canh mà giồi mài kinh sử.
Vân Sơn Thắng Tích mà đón thuyền về nơi Cửa Thuận. Hương Giang Điếu Phiếm mà
bơi thuyền trên sông Hương. Bình Lãnh Đăng Cao mà thưởng lãm đất trời trên đỉnh
núi Ngự Bình. Linh Hựu Khách Hưởng mà cúng vái thần tiên. Thiên Mụ Chung Thanh
mà nghe vang vọng tiếng kinh, hòa ngân với tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Trạch
Nguyên Tiến Lộc mà xem đoàn lính thú đi tuần phòng lãnh thổ. Hải Nhi Quan Ngự
mà ngắm cá bơi lội nơi đầm Hải Nghi. Giác Hoàng Phạn Ngữ để lắng nghe tiếng
tụng kinh nơi chùa Giác Hoàng. Huỳnh Vũ Thư Thanh mà nghe tiếng đọc sách nơi
Quốc Tử Giám. Đồng Lâm Dực Điểu để bắn chim, thăm đồng ruộng. Tây Lãnh Thanh
Hoàng mà xem suối nước nóng ở mé Tây.
Kể xong những thắng cảnh đã đến thăm, Trương Lưu, giọng buồn
buồn:
- Bẩm thượng quan, những thắng cảnh được tiền nhân tạo dựng
ấy giờ đây chỉ là vang bóng một thời. Thưở hoàng kim kia đã tàn tạ. Cả kho báu
kỳ quan của Huế, giang sơn đất nước đang mai một, suy tàn, đổ nát.
Chàng kể luôn một loạt lăng tẩm của các vị vua mà chàng đã
đến viếng thăm, gồm Thiên Thụ Lăng của vua Gia Long, Hiếu Lăng của vua Minh
Mạng, Xương Lăng của vua Thiệu Trị, Khiêm lăng của vua Tự Đức, An lăng của vua
Dục Đức. Bồi lăng của vua Kiến phúc. Tư Lăng của vua Đồng Khánh và Ưng Lăng của
vua Khải Định.
Nghe xong, quan Phủ Doãn vỗ tay khen ngợi chàng rất am hiểu
về kinh đô triều Nguyễn và biết ngưỡng mộ những kỳ quan hùng vĩ ấy của đất
nước. Quan ra lệnh cho gia nhân sửa soạn yến tiệc đãi chàng. Trong khi nâng
chén, quan hỏi chàng về đường gia thất. Chàng thưa chưa ngọn được người ý hợp
tâm đầu. Quan bèn sai gia nhân vời tiểu thư Uyển Lan ra tiếp rượu mời khách.
Khi Uyển Lan bước ra, chàng đứng sững trước một trang tiểu thơ đài các, nhan
sắc tuyệt vời. Quan giới thiệu ái nữ với chàng và nói rõ ý định chọn chàng làm
giai tế. Trai tài gái sắc gặp nhau. Trương Lưu và Uyển Lan cúi đầu ra chiều e
thẹn nhưng “hai tay cùng bắt hai lòng cùng ưa”. Họ nhìn nhau cúi đầu thi lễ rồi
từ đó, suốt yến tiệc, Uyển Lan khi chuốc rượu mời chàng, khi dịu dàng thăm hỏi.
Tình cảm thân ái giữa hai người như đã gặp nhau, yêu nhau từ lâu.
Cuối yến tiệc quan Phủ Doãn nói với Uyển Lan:
- Chàng Trương có túc duyên với con. Hôm nay cha cho mời
chàng đến là để tạ lòng tri ngộ và giao cảm của chàng đối với cha. Cha đã quết
định chọn chàng làm giai tế. Ngày mai cha sẽ mời quan Bảng Nhãn tới để chọn
ngày lành tháng tốt làm lễ vu quy cho con.
Nàng cúi đầu thi lễ, bái tạ phụ thân. Quan Phủ Doãn quay
sang Trương Lưu chưa kịp nói gì, chàng đã quỳ xuống bái tạ và gọi quan là nhạc
phụ. Quan kéo chàng đứng lên, nắm tay Uyển Lan đặt vào tay chàng và bảo:
- Hai con hãy nói lời thề ước trước mặt ta.
Chàng nắm tay Uyển Lan bước lại bái vọng bàn thờ gia tiên
thì... có tiếng gõ cửa ...?!
Trương Lưu giật mình ngồi nhổm dậy, bàng hoàng với giấc
chiêm bao, lâng lâng với cơn mộng đẹp, tiếng gõ cửa dồn đập hơn. chàng bước ra
mở cửa phòng. Hai người công an khu vực bước vào kiểm tra hộ khẩu và “kiểm tra
hành chính”. Chàng xuất trình chứng minh nhân dân nhưng không có giấy phép đi
đường của công an nên bị dẫn về trụ sở để kiểm tra. Bốn tuần lễ sau chàng được
trả về Sài Gòn, giao cho địa phương quản lý với tờ quyết định quản chế sáu
tháng, sau một tháng bị tạm giam ở Huế. Trong thời gian quản chế, đương sự
không được đi xa khỏi nơi cư trú và phải trình diện công an Phường Hố-Nai,
thuộc Quận Thủ Đức mỗi tuần lễ một lần
(*) Thơ Ưng Bình Thúc Dạ Thị
BÀI THƠ VIẾT
TRƯỚC CỔNG TRƯỜNG VẠN HẠNH
Tặng Các Bạn một thời
trong khuơn viên trường cũ.
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Khuôn viên cũ đã thay lề đổi thói
Câu Duy Tuệ (*) xốy lòng người nhức nhối
Từng nỗi buồn thấm lạnh từng cơn
Tôi trở về văng vẳng nỉ non
Ngọn tháp rưng rưng giữa chiều cuối hạ
Rên rỉ oán hờn
Quằn quại hồn Chiêm quốc
Mười năm núi lở đá mòn
Mười năm hồn người nhập viên đá cuội
Chìm lặng giữa dòng sông
Từng đợt sóng ngược dòng cuồn cuộn
Kéo tan hoang một cõi cơ đồ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Trong thác nguồn của thời Vọng Nghiệp
Cuốn đời theo thiên tai
Ngỡ ngàng hư thực
Mở cửa chân như: Lệ thấm Phật đài !
Tôi trở về thăm lại người xưa
Người xưa xuống núi
Tôi lục lọi từ hư vô
Tìm sắc hoàng y một thời rạng rỡ
Người năm xưa tán lạc mơ hồ
Ôm kinh điển trá hình vào cõi tục
Đám sinh đồ nhìn theo lơ ngơ
Gẫm từng trang Thị Nghiệp (*)
Tơi trở về thăm lại trường xưa
Cổ tháp rêu phong giữa đời gió bụi
Bầy chim nhỏ ẩn mình sau mái ngói
Kinh sách cuộn mình phủ bụi nằm mơ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Hồn mê mải góc giảng đường thư viện
Một thuở lòng say mê
Một thuở đời rộn rã ...
Mười năm tơi tả tôi về
Chập chờn ác mộng
Thiện ác chân giả lập lờ
Một cõi trần ai nhốn nháo
Bặt tiếng kinh cầu
Trời đất hoang sơ./
Song Nhị
Sài Gòn 1985
(*) Duy Tuệ /Thị Nhgiệp là
châm ngôn trên logo Đại Học Vạn Hạnh
No comments:
Post a Comment