Ra Đi - Hành Trang Chặng Đường Đến,
Ở
THƠ, 'Tiếng nói trăm năm vào đời cứu
rỗi'. Thơ cứu rỗi con người. Không có thơ, Nguyễn Chí Thiện đã rữa xác trong
tù; không có thơ, chàng sẽ không có một công trình sáng giá góp cho đời. Thơ đã
cứu sống Nguyễn Chí Thiện; Thơ đãø làm 'địa ngục nở hoa' nơi chàng (nhan đề tập
thơ 'Hoa địa ngục' của NCT). Thơ đã biến Nguyễn Chí Thiện thành nhân vật lịch
sử một thời. Nguyễn Chí Thiện làm thơ không để trở thành thi sĩ. Thơ đến với
anh, bắt anh phải 'đảm đương' một vai trò lịch sử trong dòng lịch sử dân tộc, qua thơ. .
Một câu thôi 'Tiếng nói trăm năm vào
đời cứu rỗi', Song Nhị đã nói lên cái
hoằng viễn, thâm sâu, u trầm, kín nhiệm, muôn đời của Thơ. Song Nhị đã vào đời với thơ, vào quân ngũ,
vào chiến trận với thơ. Nơi anh, người
dân, người lính, người thơ quyện vào nhau. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' không đi
tìm vinh quang trong chiến thắng. Cái vinh quang của họ ở nơi trọn vẹn nghĩa
vụ, ở nơi cái 'sứ mạng lịch sử ' của thời đại dù có phải vì bắt buộc mà dù có
phải bị bắt buộc, họ cũng đã sống với thơ. Toàn bộ thơ anh không nói gì đến
chiến thắng, chiến công, đến những hãnh diện, tự hào, oanh liệt ngày qua sau
một 'thành công' nào đó đánh bại quân thù. 'Tiếng hờn chiến mã' là tiếng hờn vì
nghĩa vụ không tròn, vì tình yêu không trọn vẹn để phải đau thương cho dân, cho
nước, cho nhà. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' đi vào chiến trận với hình ảnh 'người
dân nơi người lính' chứ không phải 'người lính nơi người dân' hay chỉ là người
lính đơn thuằn. Người 'chiến sĩ nghệ sĩ' chiến đấu để bảo vệ người dân qua
người lính. Điều nầy thường không mấy ai để ý và khó rõ ràng nói ra. Đi vào
thơ, không phải để trở thành thi sĩ; đi vào chiến đấu không phải để tìm vinh
quang. Mộng trở thành thi sĩ sẽ giết chết thơ; mộng tìm vinh quang sẽ giết chết
ý nghĩa chiến đấu, hay sẽ khiến chiến thắng không còn vinh quang mà là cuồng
bạo. Nhà khoa học ra công tìm tòi, nghiên cứu không để mong trở thành nhà thông
thái; nhà triết học mong tìm một hướng đi, một giải quyết nhân sinh không phải
để được là triết gia. Người làm thơ cũng thế; người chiến sĩ cũng thế. Người
hiệp sĩ trở thành hiệp sĩ vì đã cứu người chứ không phải muốn được là hiệp sĩ
nên mới cứu người. “Bảo vệ người dân qua người lín”, ý nghĩa chiến đấu nằm ở
đấy. Và, có thể phần nào đấy là cái 'triết lý' ẩn tàng nơi thơ Song Nhị dù anh
chẳng bao giờ triết lý:
Xin từng đốt ngón tay mỏi mòn lời
hứa hẹn
Xin ngày tháng dài ao ước đơn
sơ
Xin một lần gõ cửa gọi tên người còn
đáp lại
Xin cho quay về nhận diện ấu
thơ
Xin bồng súng chào mừng đồng
loại
Nhận huấn lệnh đi vào cuộc đời
Sự khởi đầu bằng vết hằn ký ức
Và gió mưa luân vũ quay cuồng
Những đứa bạn nằm yên dỗ giấc
Cũng thôi
Hạnh phúc vẹn toàn
.............
Xin bài kinh cầu trổi thành nhạc
khúc
Một phút an ủi vỗ về
Một phút bình yên trên vùng ảo
tưởng
Ôm tròn hoài niệm quay đi
Sự có mặt của những ngày dẫy đầy
triệu chứng.
(Tình
ca nhập cuộc – VLĐX)
“Nhận diện ấu thơ” trong sự “có mặt
dẫy đầy triệu chứng”, giữa “luân vũ quay cuồng”, giữa “vòm trời ảo tưởng”.
“Nhận huấn lệnh đi vào cuộc đời”, huấn lệnh nơi đây không hẳn là 'mệnh lệnh'
của cấp chỉ huy hay của Đảng và Nhà Nước, nếu nói về phía những người bên kia.
'Huấn lệnh đi vào cuộc đời' là sự 'bắt buộc phải 'ra đi' do “thiết yếu của cõi
đời nhân gian”, do 'điều biết tự trời'; huấn lệnh đó là cái nghĩa vụ phải gánh
vác do đòi hỏi của thiết yếu lịch sử. Làm tròn nghĩa vụ đó là vinh; không làm
tròn được không là nhục. Cái 'nhục' ở nơi tránh né cái nghĩa vụ đó hay đưa cái
nghĩa vụ đó đi sai đường lịch sử. Hân hoan nhận cái nghĩa vụ lịch sử đó (bồng
súng chào mừng đồng loại) đi vào cuộc đời. “Chào mừng đồng loại”: chào mừng
thân nhân, bạn bè, chiến hữu, chào mừng mái ấm gia đình thân thương, có thể
chào mừng cả nhân loại trong việc 'ra đi' do sứ mạng lịch sử đó, do từ 'vết hằn
ký ức'. Ký ức nào? Gần gũi là ký ức Quê hương, Tổ quốc; cao rộng, thâm sâu hơn,
đấy là ký ức về Cội nguồn mà Song Nhị đã nói. Victor Hugo cũng đã nói trước
đây:
Mọi điều đã được nói.
Điều xấu cáo chung; lệ buồn chấm
dứt; không còn xiềng xích tù gông, không còn tang ma, không còn báo động. Hố
thẳm khắt khe không còn câm nín, (mà) bập bẹ lên lời: tôi nghe gì?
Đau khổ nhân sinh tan đi trong mọi
vùng bóng tối; Thiên sứ từ cao lớn tiếng gọi mời : Nguồn cội! (5)
“Xin cho quay về nhận diện ấu thơ”; nhận diện là nhìn ra, thấy lại, sống
lại. Tuổi ấu thơ con người cùng cái Cội nguồn nguyên khởi bao giờ cũng
bình dị, đơn sơ,
thuần nhiên, thánh khiết, vô ưu. 'Xin được như vậy'(Ainsi soit-il, bốn câu thơ
đầu trích trên). Và những người nằm xuống? Họ còn mãi ôm 'hằn ký ức', 'ôm tròn
hoài niệm'; họ đã không may mắn nhìn lại được 'tuổi ấu thơ' của Quê hương, Dân
tộc, của chính mình, của Cội Nguồn nguyên thể thì xin “bài kinh cầu” (requiem)
đừng cần thiết gọi hồn họ siêu thăng mà hãy trở thành tiếng nhạc, lời thơ vỗ về
họ một phút bình yên giúp họ được 'quay đi', không còn phải đối diện với 'sự có
mặt của những ngày dẫy đầy triệu chứng' đang còn phải diễn ra.
Song Nhị 'ra đi', - 'đi vào chiến
đấu' - với ý tình như thế. “Xin tiếng nói đây em, Một lần từ biệt, Xin tiễn đưa
bằng nỗi nhớ xa xôi, Xin con tàu vào viễn lộ hoàng hôn, Sương mù biển lặng, Gom
hết đau thương đốt lửa giữa trời” (Tình ca nhập cuộc). Bài thơ được viết năm
1969 giữa lúc súng giặc vang rền khắp nẻo quê hương. Ba mươi ba năm sau (năm
2002) nơi xứ Mỹ, ý tình đó vẫn theo anh:
Sông với núi và trăng sao cây
cỏ
Em và tôi và tất cả muôn loài
Đã hiện hữu trước ý đồ tạo hóa
Đã căn phần tự thuở mới phôi
thai
Tôi đã đến, đã đi và sẽ tới
Cuộc trăm năm đoái tưởng chữ vuông
tròn
Khi nhân ảnh khuất sau vừng nhật
nguyệt
Xin gửi người còn lại khoảnh lòng
son
(Lời Mặc Khải Của Tiền Thân)
Hiện hữu không do từ ý muốn của
riêng ai mà do 'ý đồ tạo hóa', do từ 'căn phần tự thuở mới phôi thai'. Đi vào
cuộc đời là đi vào 'viễn lộ của hoàng hôn', nói theo Ôn Như Hầu Nguyễn Gia
Thiều:
Cái quay búng sẵn lên trời
Lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
(Cung oán ngâm khúc)
thì phải lần mò bước đi trong đêm
tối bủa vây. Cái quay phải quay, không được từ chối ngưng quay. Nhưng không
phải vì thế mà không chịu nhìn ra hướng mình quay và điều chỉnh dòng quay thế
nào cho thuận theo ý mình, thuận theo cái lý vận hành của Tạo hóa. Thuận Nghiệp
chính là để 'Cải Nghiệp'. Cải nghiệp bằng: “Gom hết yêu thương đốt lửa giữa
trời”. 'Đốt lên, đốt cho bừng sáng giữa trời bao la chất lửa yêu thương' để mai
kia vĩnh viễn ra đi giã từ cõi thế, “khi nhân ảnh khuất sau vừng nhật
nguyệt” (parting is all we need of hell)
được “gửi người còn lại khoảnh lòng son”. “Khoảnh lòng son”, vâng, chỉ thế, đơn
sơ chỉ thế nhưng khó khăn thay và mấy ai chịu nghĩ, chịu làm. 'Lưu thử đan tâm
chiếu hãn thanh' (lưu lại tấm lòng son
cùng sử sách – Nguyễn Công Trứ : Chí làm trai).
Giản dị quá đi thôi! Nhưng giữa cảnh
'chợ trời' nham nhở tranh đoạt lợi danh, quyền uy, chức vị, nào mấy ai đủ nghĩa
khí, can trường thực hiện, ngoài một số ít người luôn nuôi dưỡng nơi mình 'khí
hạo nhiên chí đại chí cương' (Nguyễn Công Trứ: Kẻ sĩ) và ngoài nhà thơ, những
nhà thơ thực sự là nhà thơ, những nhà thơ đi vào cuộc đời với cả tâm hồn người
dân chất phác, người chiến sĩ kiên cường và người nghệ sĩ lãng mạn, bát ngát
yêu thương trang trải tình người thanh tân, thánh khiết đem 'Thơ vào đời trăm
năm cứu rỗi' . Đấy là sứ mạng của Thơ,
của nhà thơ, những nhà thơ lớn của thời đại nguy nan (poètes en temps de
détresse - M. Heidegger), những nhà thơ lớn vào thời tận cùng của một giai đoạn
lịch sử bi thương của thế giới (lời Holderlin, trích trên).
Lời thơ có sức mạnh thuyết phục,
nâng cao ý chí, khí lực con người, gieo tin tưởng vào cõi lòng đang sầu héo
trong mọi bất hạnh đang diễn ra cho mình, cho nước, cho dân. "Tôi đã đến,
đã đi và sẽ tới", lời thơ tuôn chảy, không chút vấp váp nào như một xác
quyết, khẳng định với mình, với người. Cuộc sống là một hành trình "Ra đi,
Đến ở, Trở về" lúc bế tắc, lúc hanh
thông nhưng bao giờ cũng dẫn đến thời điểm 'tới nơi" với những ai bền tâm,
tráng chí kiên trì trong chí hướng làm đẹp người, đẹp đời, đẹp đạo,...
Bao nhiêu bài nữa nhưng xin dừng.
Bàng bạc trong thơ Song Nhị những ý tình xa xôi, hoằng viễn đó, những ý tình
triết lý về ý nghĩa làm người, ý nghĩa cuộc sống, có thể do xuất thần cảm ứng
mà anh không biết, không ngờ. Nhưng dù do xuất thần thì cũng đã do từ lâu rồi
tiềm tàng nội tại trong tâm tư phát sinh từ bản chất nghệ sĩ vừa hạo nhiên vừa
lãng mạn. Xin sống với cái tâm hồn 'chiến sĩ - nghệ sĩ' nơi anh để nhận ra phần
nào kín nhiệm nơi thơ anh.
Với tâm hồn đó, Song Nhị đã đi vào
chiến trận với hình ảnh 'người dân nơi người lính'. Điều nầy, người lính Mỹ
đồng minh không thể nào hiểu được (6). Cả những lính Việt Nam bên kia
chiến tuyến. Họ - những người Cộng sản - đi tìm vinh quang không cho người dân,
có thể không cả cho người lính mà chỉ cho họ, cho tập đoàn Cộng sản, cho chủ
nghĩa, cho cái 'ý thức hệ' riêng tây của họ. Họ đã biến người dân thành người
lính, họ bảo vệ người lính hơn người dân. Họ đã xua hàng trăm, hàng ngàn người
dân đi trước lính trong những cuộc tấn công. Chiến thuật 'biển người' đã giết
hàng loạt nguời lính và người dân. Họ - người Cộng sản - biến người lính không
còn là người dân để họ tìm vinh quang trong chiến thắng và để người lính được
nhận phần thưởng 'liệt sĩ, anh hùng' (!). Họ biến người lính thành từng cầu thủ
bóng tròn, thành từng võ sĩ quyền anh,
những 'sát thủ' hay những 'giác đấu' phải thắng mọi đối thủ để được Đảng tặng
thưởng tiếng 'anh hùng' đem vinh quang (!) về cho Đảng (7). Tất cả đều thuộc về
Đảng và Nhà nước, nằm trong vòng tay, khuôn khổ của Đảng và Nhà nước, cả đất
nước, tôn giáo, pháp lý và lịch sử cũng thế. Xin không dông dài để khỏi bị gán
ghép là 'tố Cộng'. Quang Dũng, một chiến sĩ nghệ sĩ thời chống Pháp đã không
theo văn nghệ của Đảng nên bị đánh giá là 'lãng mạn tư sản' nên bị thất sủng.
Và bao người như thế cho mãi đến nay, không cần kể nói nơi đây. Người lính
không mang theo hình ảnh người dân nơi mình, không 'bảo vệ người dân nơi người
lính' thì chỉ là người lính đánh thuê, người lính của lực lượng xâm lăng hay
công cụ trong tay kẻ độc tài. bá đạo.
Song Nhị không đề cập đến điều nầy
nhưng qua thơ anh, ta mơ màng nhận ra tính cách chiến đấu theo tinh thần 'hiệp
sĩ hùng anh' nơi người lính, nơi người
'chiến sĩ' đúng nghĩa là 'chiến sĩ '.
Do bản chất 'người dân, người lính,
người nghệ sĩ', quyện vào nhau, thơ Song Nhị kết hợp cả hai tính chất cổ kính
của thơ xưa với tính lãng mạn của thơ nay. Trong “Tiếng hờn chiến mã”, lời thơ
phảng phất không khí Đường thi qua các bài Thất ngôn, ngũ ngôn tứ tuyệt hay
những bài ít nhiều theo lối cổ phong. Ta đọc ra cái phong thái hạo nhiên, cái
khí tiết kiên cường của kẻ sĩ phu yêu nước trước đây, cái dũng của con người
hào kiệt, nguy nan, gian hiểm dạ chí không sờn. Có buồn đau vì nghĩa vụ không tròn,
vì lâm vào thế phải 'gãy kiếm cung' thì cũng là cái buồn đau, than thở, ngậm
ngùi chung do thời không xuôi, thế không thuận chứ không rũ liệt, nát tan, nhục
nhã để phải tự mình đánh mất khí tiết hùng anh. Qua thơ Song Nhị, ta như sống
cái không khí 'Kẻ sĩ' của một Nguyễn Công Trứ ngày nào.
Những bài làm theo thể thơ mới, tự
do và nhất là Lục bát, phần lớn nơi 'Về lối đi xưa' chan chứa tình cảm ngọt mát
tính chất trữ tình, tha thiết, mặn nồng, cảm động. Lời thơ như tuôn chảy, dàn
trải, mở phơi tình tự. Hình ảnh trong thơ không nơi từ ngữ mà nơi văn ảnh tức
hình ảnh của toàn bài chứ không chú trọng nơi một ẩn dụ, một biện pháp tu từ
nào. Bài “Sáng lại lòng con” là một điển hình. Mượn một hình ảnh hiện thực “Cặp
kính viễn mẹ cha cho con” chuyển thành
văn ảnh mang tính chất ẩn dụ vừa nói lên tình cha nghĩa mẹ đậm đà, cùng công
khó và ý tình mẹ cha vừa mang chứa ít nhiều tính chất triết lý. 'Cặp kiếng' mẹ
cha trao cho không chỉ để giúp con nhìn đọc tỏ tường mà trở thành 'cặp kiếng
của lương tâm', của 'trí tuệ', của 'tấm lòng' nhìn rõ mình, rõ người, rõ nhân
tâm, thế sự, rõ tình đời, vận nước; cặp mắt già vì số tuổi, vì buồn đau, vì
truân chuyên, nhục nhằn, khổ nạn, cặp mắt đã mờ, cặp mắt sáng lại:
Con đã thấy đã nghe đã hiểu rồi
Thưa mẹ
những gì rất đáng yêu
những gì rất ghê sợ
con đã đến đã đắm mình trong đó
tha thiết trong yêu thương
dạn dày trong đau khổ
sôi sục trong hờn căm
con lớn lên theo năm tháng nhục
nhằn
mắt con đã mờ
mắt con sáng lại.
(Sáng Lại Lòng Con – THCM)
Tính chất trữ tình nơi đây, phần nào
do tính cách hạo nhiên của kẻ sĩ, đã vượt lên trên 'mặt bằng tình cảm' thường
ngày, hướng đến một thứ tình yêu lung linh, diệu vợi, thiêng liêng nào
khác:
Tôi trải lòng mình
tiếng yêu thương mời gọi
xin mặt trời soi
vườn tỉnh ngộ nở hoa
(Thông điệp từ địa chỉ New
York 9/11 Gởi loài người)
Thơ Song Nhị là loại thơ chiến đấu,
không phải cổ vũ đấu tranh vì hận thù mà chiến đấu cho một lẽ sống không còn
gian trá, giả hình, một cảnh sống trong tình thương, trong Lẽ Thật, trong cái
"ĐẸP" của tình người đôn hậu, thuần nhiên, chiến đấu cho một cảnh đời
ngọt ngào ân ái, luôn luôn an bình, hạnh phúc, đâu đâu cũng là Đất Trời Quê
Hương luôn mùa Xuân hoa nở. Cái "lãng mạn" nơi thơ anh không là cái
"lãng mạn tư sản", cái lãng
mạn của "tình tự mặt
bằng" mà là thứ "lãng mạn chiến đấu”, thứ lãng mạn hào hùng của
người chiến sĩ nghệ sĩ đấu tranh cho
nhân đạo, nhân quyền.
Ngoài một số bài ngậm ngùi về cảnh phải 'ngã ngựa' và một số bài nói về
cảnh 'đổi đời tê tái' của Cộng sản phủ trùm lên đất nước, nhân dân, nhìn chung,
thơ Song Nhị luôn luôn nói đến 'tình người', không chỉ giới hạn nơi những mối
tình thiết tha cao quý ai cũng hằng mong trong cuộc sống hằng ngày (yêu mẹ cha,
chồng vợ, con cái, bạn bè, yêu Tổ quốc, nhân dân,...) mà còn hướng đến một tình
yêu thăng hoa con người cùng cuộc sống, cuộc đời để cả mặt đất bình yên, cả
nhân loại không còn trong bóng tối quỷ ma. Xin mượn lời thơ của Victor Hugo
trong bài “Bên bờ vô hạn” (au bord de l'infini) để kết thúc bài viết nầy và
cũng để phần nào nói lên cái 'Tình Yêu' thánh thiện, thiêng liêng mà Song Nhị
ước mong được thấy dựng xây cho tất cả mọi người nơi cõi thế, thứ tình yêu Song
Nhị đã đem theo mình trong chiến đấu, trong ngục tù cải tạo, trong thân phận
lưu dân nơi xứ người qua suốt cuộc hành trình 'Ra đi, Đến ở, Trở về' biểu hiện
qua Thơ “Tiếng nói trăm năm vào đời cứu rỗi”:
Giờ đã đến. Hy vọng lên.
Thắp sáng lại linh hồn lịm tắt
Thương yêu nhau! Thương yêu nhau!
Vì là lửa ấm thiêng liêng
Lửa của ngày thực sự bình yên,
Vũ trụ mịt mờ, giá buốt, ăm ắp đảo
điên
Đang hỏi đòi nhân thế thăng hoa bởi
ngọn lửa thiêng
Và con người bởi tình yêu vô hạn.
(8)
NGUYỄN THÙY
Grenoble (France) 15/11/2002
---------------
Chú thích:
1) Hai câu thơ, tôi không nhớ được
chép lại nơi sách nào (có thể từ một sách của Bùi Giáng). Ngày ở Pulau Bidong
(1989), tôi có đọc một 'Tuyển tập thơ tiếng Anh'. Không biết tiếng Anh, tôi chỉ
'nhìn' qua số vốn liếng tiếng Pháp ít oi và nhờ vào Tự Điển. Từ 'Parting' có
thể dịch là 'chia ly, biệt ly, từ ly, vĩnh ly'; tôi dịch theo tiếng thuần Việt
là 'Ra đi'. 'Hell' có nghĩa là 'địa ngục', có thể dịch là "cõi âm",
"âm cảnh" hoặc "đời nhà ma". Nhưng đã vào địa ngục thì
không còn 'ra đi' nữa; do đó từ 'hell' nơi đây chỉ cõi sống trần gian dẫy đầy
tội lỗi khổ đau, nên tôi dịch là 'đời nhân gian' phỏng theo lời thơ Nguyễn Du
trong truyện Kiều: "Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian".. Lời thơ
Emily Dickinson đã gợi ý tôi làm đôi bài thơ, xin trích đôi đoạn:
a) Hỡi Thượng Đế, u sầu chi quá
đổi
Chẻ chia mình để giải tỏa cô
đơn
Tự chứng quả giữa dòng đời trôi
nổi
Đi tìm yêu trong đáy thẳm tình
buồn…..
Người tìm lại dung nhan Người buổi
đó
Trải u sầu đen tím gót nhân gian
Bước dịch chuyển theo trang đời lổ
đổ
Để dời đô lên ngự đỉnh Thiên
đàng.
b) Em giả từ nguyên sơ
Vào nằm dòng sử máu
Gieo linh hồn nghiệp báo
Sầøu nhân quả bơ vơ…..
2) L' heure la plus sombre est juste
avant l'aurore – Arnaud Desjardins : 'Regards sages sur un monde fou', édt. La
Table Ronde, No 2938, Paris 1997, trang 280, câu cuối cùng của sách
3) 'Tổ quốc, Kiều địa, Cố hương'
(Patrie, Colonie, Sol natal). Xin không đi vào Đạo học vì quá dông dài và khó
hiểu. Xin nói về người Việt hải ngoại hiện nay. Chúng ta đã phải rời Tổ Quốc
(Quê Hương, Đất nước) ra đi, 'đến ở' nơi miền Kiều địa (đất khách, quê người),
luôn luôn khao khát và quyết tâm 'trở về' với 'Cố hương' (cố quận) để làm đẹp
Tổ Quốc, Quê Hương với bao hành trang tích lũy qua chuổi ngày phiêu lưu nơi đất
khách. Về mặt Đạo học (Ontologie, Philosophie de l' Eâtre), Tổ Quốc chính là
Cội Nguồn phát sinh vũ trụ hiện tượng, Kiều địa là cõi sống thế gian (cõi Diệu
hữu theo Phật giáo) với vô vàn hiện thể vật và người luôn luôn biến đổi vô
thường; Cố hương hay Cố quận là sự quy hồi, hồi phục của Tổ Quốc, Cội Nguồn
trong một trạng thái tròn đầy, viên mãn, tốt đẹp hơn thưở ban đầu. Phần nào lời thơ Emily Dickinson và tấm
'gương cũ' trong lời thơ Bà Huyện Thanh Quan (nghìn năm gương cũ soi kim cổ)
mang ý nghĩa đó. Thơ Song Nhị tiềm tàng ý nghĩa cao rộng nầy.
4) En général, les poètes se sont
formés au début ou à la fin d'un âge du monde. C'est avec les chants que les
peuples descendent du ciel de leur enfance pour entrer dans la vie active, au
pays de la culture. C'est avec des chants qu'ils s'en retournent à la vie
originelle. L'art constitue la transition de la nature à la culture, et de la
culture à la nature – Holderlin – Trích dẫn bỡi M.Heidegger trong tác phẫm
'Holderlin Hymnen', bản dịch Pháp ngữ "Les Hymnes de Holderlin" của
Francois Fedier và Julien Hervier, nrf, Gall. Paris 1988, trang 33. (Từ 'nature' nơi đây,
xin không hiểu là 'thiên nhiên' mà là 'bản thể của tự nhiên' (le naturel de la
nature).
5) Đoạn cuối bài trường thiên 'Au
bord de l'infini' (Bên bờ vô hạn) của Victor Hugo:
Tout sera dit. Le mal expirera; les
larmes
Tariront; plus de fers, plus de
deuils, plus d'alarmes;
L'affreux gouffre inclément
Cessera d'être sourd, et bégaiera:
Qu' entends-je?
Les douleurs finiront dans toute l'
ombre; un ange
Criera: Commencement!
('Commencement' không nên hiểu là
'bắt đầu' hay 'khởi đầu' (début) mà là 'Khởi nguyên' hay 'Cội Nguồn'. Sự khác
biệt giữa 'khởi đầu' và 'khởi nguyên', xin không nói nơi đây vì sẽ dông dài).
6) Một số phim Mỹ cho ta thấy người
lính Mỹ hầu như chỉ được huấn luyện trở thành 'đấu thủ' để quật ngã hết mọi đối
thủ như trong phim Rambo với tài tử
Sylvester Stalone. Một số phim Mỹ khác chỉ chiếu cảnh chiến đấu của lính
Mỹ với đối thủ của họ là Việt Cộng mà không đề cập gì đến những chiến đấu của
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Người lính Mỹ cùng cấp tướng tá và ngay cả các viên
chức Chính quyền Mỹ ở Nhà Trắng, ở Ngũ Giác Đài không bao giờ nhìn ra cái khó
chịu của người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bắt buộc phải tuân theo những kế hoạch
hành quân, những kỹ thuật chiến đấu nhà nghề theo lối 'đấu thủ', 'giác đấu' của
họ. Người lính Việt Nam Cộng Hòa cũng kiên cường, gan dạ, bất khuất, hiên ngang
nhưng không trong tính cách 'đấu thủ' và 'đối thủ' trong 'đọ sức' để tìm vinh
quang cho cá nhân. Họ - người Mỹ - không bao giờ nhìn ra cái tính cách 'người
dân nơi người lính' của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (dĩ nhiên, tôi không
nói đến những hạng 'lính kiểng', những cấp tướng tá di sản của Quân đội Pháp
cùng những thứ tướng tá do hối lộ hay cách nào khác để được lên lon đều đều).
7) Như những 'Nguyễn Văn Trổi, Nguyễn Văn Bé' và bao
bao nữa qua sách báo Cộng sản.
8) Đoạn thơ cũng trong trường thiên
'Bên bỡ vô hạn' của Victor Hugo:
L' heure approche. Espérez. Rallumez
l' âme éteinte!
Aimez-vous! Aimez-vous! Car c' est
la chaleur sainte,
C'est le feu du vrai jour,
Le sombre univers, froid, glacé,
pesant, réclame
La sublimation de l'être par la
flamme,
De l'homme par l'amour!
(Victor Hugo: Les Contemplations;
nrf Poésie/ Gallimard, Paris 2002, trang
407)