Friday, January 4, 2013

Lời Rao Giảng Của Thơ – Nguyễn Thùy (Kỳ 1)



Ba Chặng Đường 
Một Hành Trình trong thơ Song Nhị
                                             
Ra đi điều biết tự trời
Ra đi cần thiết cho đời nhân gian      
(Parting is all we know of heaven
And all we need of hell )
 (Emily Dickinson)

Hai tập thơ 'Tiếng Hờn Chiến Mã” và “Về Lối Đi Xưa” cùng một số bài trên giấy rời của Song Nhị đến với tôi hôm nay. Đọc thoáng qua một số bài và tên hai tập thơ, nhất là tựa đề tập thứ hai, cảm giác đầu tiên của tôi là hầu như thơ Song Nhị luôn chập chờn, lãng đãng những 'Đi', 'Về'  'Đến', 'Ở' khiến tôi liên tưởng đến lời thơ Emily Dickinson trích ở trên (1).  

                                        
Chiến mã lẫy lừng bao chiến trận
Đã đi là quyết một lần đi
   (Tiếng Hờn Chiến Mã)  

- Thì thôi, lòng hãy quên đi vậy
Đi, Ở, Về, Đi. Cũng số phần…
- Mai kia nếu phải ra đi nữa…..                   
Nếu phải đầu thai một cõi nào
   (Về đây – VLĐX)                                    
Ta về phố xá thời ma đạo
tìm thấy hồn ta trong cổ thi…
    (Tìm Lại Hồn Ta - THCM)

Toàn thể thơ Song Nhị qua số thơ tôi nhận được, theo tôi, tập trung vào từng chặng 'Đi, Đến, Ở, Về'  nầy. 'Đi' là 'ra đi'; 'Về' là 'trở về, về lại'; 'Đến, Ở' là 'ngụ cư nơi đất khách, quê người'. Điều nầy bàng bạc hầu hết nơi thi ca người Việt hải ngoại nhưng nơi thơ Song Nhị đậm nét và rõ ràng, súc tích không riêng nơi một số bài mà trở thành đề tài và chất liệu trong thơ anh. 'Đi, Đến, Ở, Về', những động từ thường xuất hiện trong thi ca, vẽ lên hành trình một kiếp sống, một thân phận; chân dung một lẽ đời với bao buồn, vui, khổ, sướng, phiền muộn, ưu tư, hân hoan, phấn khởi…., tất cả cảnh ngộ và tâm trạng  con  người trong vận hành lịch sử nhân sinh.
Cuộc chiến tương tàn dưới đủ mọi nhãn hiệu nhân danh, trên hai mươi năm lẻ đã cày nát hình hài, da thịt, óc tim đất nước và con người Việt Nam. Không cần thiết phải xác định ở vị thế nào – bên nầy hay bên kia chiến tuyến, địch, thù, ta, bạn - để nhận định, đánh giá ngay gian, phải trái về phía nào - điều nầy mọi người đã nói, đã viết và lịch sử đã đề cập cũng như đang còn và sẽ  xét  soi - Cái oái oăm, ngược ngạo, bi đát, phi lý và hài hước chưa hẳn ở nơi cuộc chiến mà chính ở lúc đã 'hòa bình', lúc cuộc chiến  đã tàn,  đã  ngã ngũ, đã kết thúc thắng bại, hơn thua'.
Hòa bình', danh từ đẹp quá đi thôi! Ấy thế mà, tiếng súng vừa ngưng, hàng trăm ngàn người đã phải 'trốn chạy hòa bình'! Và, liên tiếp sau đó, hàng triệu người khác, đủ mọi thành phần, có cảû những kẻ từng muốn mong, khao khát hòa bình và náo nức mừng vui đón chào ngày 'thống nhất hòa bình' lại phải lo toan, tìm mọi cách để 'đào tẩu hòa bình' dù biết có phải chết nơi rừng sâu, biển cả (hàng trăm ngàn người đã chết rồi!).. Ngay bây giờ, nếu có cơ hội, chắc cũng lắm người tiếp tục 'trốn chạy hòa bình' sau trên hai mươi năm 'hưởng thụ hòa bình'! Và cũng một số người bên phe 'chiến thắng', cùng thân nhân, con cái họ cũng đã 'đào tẩu hòa bình', tìm cách 'ty nạn hòa bình' mỗi khi ra nước ngoài hay không trở về lại nước sau thời gian tu nghiệp, du học nơi các 'đế quốc đầu sỏ' mà họ đã từng nhiếc mắng, lên án không tiếc lời.
'Trốn chạy hòa bình', nghe ra ngược ngạo, khiên cưỡng, trái tai, thế, nhưng cả thế giới năm châu, cả cơ sở quốc tế toàn cầu – Liên Hiệp Quốc - đều công nhận qua danh xưng hợp pháp 'tỵ nạn chính trị' và hao tốn bao nhiêu sức người, sức của, thiện chí, tình thương đùm bọc, chở che. Một thứ 'Hoà bình' nghiệt ngã, hòa bình trong máu và nước mắt, trong xiềng xích, tù đày, trong thân phận  khổ  sai, nô lệ! 
Một tình cờ hay oái oăm lịch sử hay một sắp đặt ẩn mật trớ trêu của dòng Sử Mệnh Việt Nam ra ngoài dự liệu của con người đã đẩy đưa đất nước đành lòng phó thác hàng  triệu đứa con yêu quí phải 'trốn chạy hòa bình',  xa rời khúc ruột thân thương, bơ  vơ nơi  xứ lạ, lạc loài, hiu hắt, buồn đau, để làm gì?   Lịch sử sẽ trả lời. Thơ văn người Việt hải ngoại đã ít  nhiều nhìn ra. Và, hơn ai hết, Song Nhị đã nhìn ra và đấy là những quặn đau cùng ước vọng nơi tâm thức qua cái 'Đi, Đến, Ở, Về' nơi các thi tập của anh.

'Tiếng Hờn Chiến Mã' - động lực 'Ra đi''
'Tiếng hờn”: hờn buồn, hờn tủi, hờn giận, hờn căm không hẳn là thù hận: hờn thời đại, hờn lịch sử, hờn tủi phận mình.                                
- Người rã ngũ rồi non nước đâu                                        
tim ta máu đọng khối thâm sầu                                         
hỡi ơi, trời đất cùng rơi lệ                                        
trang sử lật rồi cuộc biển dâu!                                                     
    (Ta Gục Giữa Hồn Ta)                                 

- Một phần tư thế kỷ                                       
Tiêu ma trong một ngày                                      
Ngày rừng thiêng bão lộng                                       
Đàn chim vỗ cánh bay                                       
Ôm gia tài lịch sử                                       
Ngậm lá bùa thiên di                                       
Trên nhánh đời chập choạng                                       
Ngồi hót thời biệt ly                                                    
    (Chặng Hai Ngàn Thời Chim Di Việt Nam)

“Cuộc biển dâu”. Vâng, một cuộc biển dâu. 'Trải qua một cuộc biển dâu”, Trăm điều thấy, nghìn điều đau não nề, Dân tộc đó, tỉnh mê mê tỉnh, Giang san đây, gan tím tím gan, Ba mươi tháng Tư bảy lăm… ! 'Trang sử lật rồi', lịch sử chấm dứt những trang đời chiến tranh thê thảm để lật sang những trang đời 'hòa bình' bi đát, nham nhở, điêu linh! Ôi, Hòa Bình! 
Nỗi tủi hờn theo sát lưng chiến mã. Chiến mã, con ngựa chiến, ngựa trận, ngựa sắt của Phù Đổng, ngựa Xích Thố của Quan Vân Trường, ngựa Ô Truy của Hạng Võ, ngựa Bạch Mã của César, ngựa Long Mã đã đưa thầy trò Đường Tam Tạng thỉnh kinh. Ngay cả những con ngựa đá điện Chiêu Lăng, chân cũng dính bùn vì như cùng xông pha ra trận đánh đuổi quân Nguyên đã là đề tài cho hai câu thơ bất hủ của Trần Nhân Tông:
“'Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(đã có người dịch: Xã tắc hai phen bon ngựa đá/ sơn hà nghìn thuở vững âu vàng).

Chiến mã nơi thơ Song Nhị không là ngựa mà là “'ngưỡi cỡi ngựa” tức người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong suốt cuộc chiến chống Cộng sản xâm lăng. Đoàn chiến mã anh hùng đó đã phải bị 'ngã ngựa', đã phải bị bắt buộc buông súng, buông gươm, phải nhận chịu bại trận theo 'mệnh lệnh' đầu hàng:                                      
Kim cổ đông tây hề! Chiến mã                                       
ào ào ngọn vó hề! Sa trường                                       
bao phen đất dội trời rung chuyển                                       
chiến mã dọc ngang hề! tứ phương                                         
Chiến mã lẫy lừng bao chiến trận                                       
Đã đi là quyết một lần đi                                       
Giang sơn, tổ quốc, lòng trung nghĩa                                       
Một phút, thôi đành! Lẽ thịnh suy....!

Không riêng 'đoàn chiến mã' mà gần cả hai mươi triệu nhân dân Miền Nam, từ ngày đó, cũng ôm 'hờn chiến mã' như Song Nhị, cũng phải 'một phút, thôi đành! Lẽ thịnh suy'. Người 'chiến mã' Song Nhị đã ngã ngựa, đã phải nhận chịu thất bại, không do mình mà do từ những lý do đâu đâu; nói chung Song Nhị đã phải đứng chung trong hàng ngũ 'phải chiến bại' (!).
Có những thất bại rất kiêu hùng dù thất bại vốn không hàm chứa kiêu hùng, và không ai, ít ra tự khởi đầu lại đi tìm kiêu hùng trong thất bại. Cái thất bại của phong trào Duy Tân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trương Công Định, Thiên Hộ Dương, của Nguyễn Thái Học, của Phan Bội Châu… là những thất bại kiêu hùng. Cái thất bại của Imre Nagy xứ Lỗ Ma Ni trước đoàn quân xâm lăng của Liên Xô (thời Nikita Kroutchev) là cái thất bại kiêu hùng. Cái thất bại của Miền Nam Việt Nam trước cuộc xâm lãng vũ trang của Cộng sản là một thất bại kiêu hùng. Vì thế, thất bại mà không nhục. Cái 'nhục' không ở nơi 'đoàn chiến mã' mà do từ 'Trang chiến sử đồng minh cờ giũ cuộc, Nửa sơn hà nghịch lũ cuốn trôi phăng' (Vẫn đợi mùa Xuân – THCM), do từ những lãnh đạo nhiều tham vọng mà bất tài, không tư cách cho dù trong 'thế chẳng đặng đừng', cho dù bị ép vào 'đường cùng, thế bí' thì ít ra cũng phải biết 'tự trọng', phải giữ được ít nhiều cái hào khí hùng anh của dân tộc như một Trần Bình Trọng, một Phan Thanh Giản, một Hoàng Diệu, một Nguyễn Tri Phương,… xưa kia hay như một Lê Văn Hưng, một Nguyễn Khoa Nam…. trong ngày toàn dân 'ngã ngựa'). Cái 'nhục' còn ở ngay cả bên 'chiến thắng' do từ cái 'Hòa bình' mà họ đem lại cho cả nước, đúng hơn là họ áp đặt, bắt nhân dân phải gánh chịu. Cái thất bại của Song Nhị và của bao nhiêu chiến hữu như anh không nhục mà kiêu hùng. Vì thế, anh chỉ 'hờn' mà không nhục. Cái 'thất bại kiêu hùng' đó theo anh mãi mãi:                                     
Sá chi sinh mạng thời binh lửa                                       
thì tiếc gì thân buổi bại hàng                                       
lê gót xích xiềng thời đại cổ                                        
ngậm ngùi chiến mã bước hiên ngang                                       
Bước đi trên nỗi buồn hoang phế                                       
Trên những cỏ cây cúi gục nhìn                                       
Trên những vệ đường người lạnh cóng                                       
Những hàng đinh nhọn cắm xuyên tim                                                            

"Sinh mạng thời binh lửa", coi nhẹ như "hồng mao" thì "buổi bại hàng’ tiếc thương gì "thân tứ đại". Mặc kẻ thù dày xéo, vẫn cứ hiên ngang dù có ngậm ngùi cho thân thế. Đoạn thơ cho thấy nét kiêu hùng cùng ý chí kiên cường của kẻ trượng phu giữa bao nhiêu nghiệt ngã còng lưng gánh chịu. 'Bước hiên ngang giữa những ngậm ngùi', ngậm ngùi cho cả một thời đại, cho cả loài người bày 'lối chơi hoang trò dã thú'; ngậm ngùi trước oan khiên của hồn sông núi gánh nặng trên vai oằn; trước cảnh 'nghịch thường' của đoàn chiến mã giờ đây phải ra sức nhọc nhằn 'xô trái núi' không để dựng xây công ích cho dân mà chỉ để 'dựng xà lim' giam nhốt con người:                                      
Ở đây trời đất vừa thu lại
còn một vòm đen chứa thế gian
và cả loài người như đổi lốt
bày trò dã thú lối chơi hoang

Tôi tưởng như mình vừa sống lại
Tự nghìn kiếp trước nối oan khiên
Oằn lưng gánh lấy hồn sông núi
Hiu hắt trong lòng đóm lửa thiêng                                    

Tôi đi núi đổ đè thân phận
Đá cứa vai trần máu rướm tim
Cả một đoàn người xoay trái núi
Dời non chuyển đá dựng xà lim
   (Tôi Đi Giữa Đoàn Tù Vác Đá – THCM )  

'Tiếng hờn chiến mã' không phải để 'mím miệng, cắn răng' gượng nuốt nghẹn ngào, đau khổ vì hoàn toàn bất lực trước nghiệt ngã, không là thái độ 'so gan' trước kẻ thù hoặc cam phận chịu đựng; ngược lại, với Song Nhị, với những người như Song Nhị, 'tiếng hờn chiến mã' chính là  để  thách thức  gian nguy, để  nhìn ra mình, ra người, ra cuộc cờ dâu biển, để 'hờn' mình không tròn nghĩa vụ, từ đó hướng đến một nghĩa vụ mai nầy phải gánh vác khởi đi từ 'tiếng hờn', tữ những đau buồn, mất mát cùng những bức bách của lịch sử hôm nay:                                      
Dưới vòm đen nộ khí                                       
đàn ngựa đứng nhìn lên
nhớ đường xa dong ruổi                               
mang tội hình không tên


Ngày từng ngày lửa nắng                                      
đốt cháy cánh đồng hoang
đốt trên làn da thịt
đốt trên nổi cơ hàn
đốt sao được tim óc
đàn ngựa hồng bất kham
(Đàn Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng Hoang -THCM)
để 'trước họng súng trước lưỡi lê. Cùm kẹp, từng nụ cười vẫn nở rất tươi' (Một tù khúc cho em- THCM) vì luôn luôn nuôi dưỡng:                                    
ta chờ xóa vết chân hoang                                       
về đem huyết sử viết trang chuyện đời                                       
ta chờ người lại với người                                       
xóa tan huyền thoại những lời võng ngôn.                                                 
   (Từ Cõi Hồng Hoang – THCM)

Cái 'chờ mong' đó được nung nấu từ 'Tiếng hờn chiến mã' hôm nay để tự thâm tâm vọng lên lời kêu gọi thắp sáng niềm tin. Chờ gì? Chờ "xóa vết chân hoang" của bầy dã thú, chờ "người lại với người" để bao huyền thoại mang đầy võng ngôn được xóa sạch cho trang chuyện đời không còn những máu lệ tang thương, những trò mị dân, lọc lừa, man trá.                               
Hỡi bầy chim trên khóm rừng già                                       
hỡi bầy ngựa hoang trên cánh đồng khô                                       
hãy thức dậy từ giờ                                       
nghe tiếng hát và nghe lời giục giã                                    
.......                                      
Cuộc bể dâu làm vỡ vụn tinh cầøu                                      
thời gian qua chưa đủ mờ dĩ vãng                                       
nên lòng còn trên chóp đỉnh thương đau                                      
nên lòng còn trăm nghìn lời muốn nói                                      
nên tình còn trăm nghìn điều mến thương                                      
trong nỗi ngây ngất không cùng                                      
hãy ném hồn lên đỉnh ngọn sầu đông                                      
uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá                                 
.........                                     
Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy                                     
Bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về                                     
Ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc                                     
Hỡi loài người vội vã tĩnh cơn mê.                                                  
    (Tiếng Hát Loài Chim Di - THCM)

Cuộc bể dâu có làm vỡ vụn tinh cầu, có biến đoàn chiến mã thành đàn ngựa thồ thân tàn ma dại, cũng không thể nào đốt được tim óc đoàn ngựa bấùt kham vì còn trăm ngàn lời chưa nói hết, trăm ngàn mến thương chưa tròn, trăm ngàn điều chưa trọn với đất nước, quê hương, với tổ quốc, gia đình nên 'tiếng hờn'  luôn luôn vang vọng.

Lời thơ mạnh hùng, tràn đầy khí lực. Trên "chóp đỉnh thương đau", giữa bao u hoài, trăn trở, tiếng thơ vang vang lời kêu gọi đầy nhiệt huyết và đầy tin tưởng, như lời hịch giục giã mọi người can đảm nhận chìm bao khổ nạn, mạnh dạn, kiên cường "uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá", gọi nắng mai về, gọi mặt trời mọc sớm cho rừng hoang trổ lại xanh tươi, cho bầy chim di trở về tổ ấm và trên hết, cho con người "vội vã tỉnh cơn mê".
Song Nhị không nói riêng cho mình, không riêng cho đồng đội chiến hữu mà cho tất cả mọi người, đặc biệt cho lớp người đang gây hung hiểm cho đoàn chiến mã, cho cả loài người bằng đủ mọi loại huyễn ngôn, ma mị, giả hình. Cái "can trường hiện hữu" (the courage to be – mượn lời của triết gia Paul Tillich) nằm ngay nơi lời thơ của con người vừa là chiến sĩ vừa là một nghệ sĩ lãng mạn trong đấu tranh giữa trùng trùng gian khổ đè nặng trên vai oằn, trên lưng còng, trên tấm thân héo úa.
Thơ Song Nhị luôn khắc khoải trong niềm ưu tư đó; chính niềm ưu tư nầy đã nuôi dưỡng chí hùng anh, đã thôi thúc cái kiêu hùng của 'chiến mã' miên viễn dậy dàng để luôn luôn 'đi về phía trước' (Từ giữa ngục tù – THCM). 'Mang dấu tích một thời tao loạn,… đủ trăm nghìn nhức nhối từ một lần lịch sử sang trang' nhưng trong anh 'trăm nghìn ước mong chờ đợi', không phải những 'viễn vọng mơ hồ, tìm thần tiên ở một ảo tưởng sa mù' (Từ giữa ngục tù đi tới) mà ngay ở đất trời dương cảnh, ở ngay nơi cuộc sống thế gian, ngay trong song sắt và bốn bức tường vây hãm:                                      
Ta phải sống                                       
ta sẽ đến đó với em                                        
với nghìn lần trìu mến                                        
ta sẽ giang hết đôi tay                                        
trải rộng tâm hồn                                        
lăn vào cuộc sống                                        
với nhiệt huyết dư thừa                                                                
   (Từ giữa ngục tù đi tới)

"Ta phải sống" không chỉ là lời hứa hẹn mà là lời "đoan quyết"' với mình, với người, với lịch sử. Giữa muôn ngàn đớn đau, không một lần ngã quỵ, nhiệt huyết vẫn dư thừa để "lăn vào cuộc sống" với tâm hồn trải rộng, với giăng hết đôi tay nghìn lần trìu mến. Yêu đời, yêu người, sức sống nơi nhà thơ vững chắc như thành đồng, lời thơ như những mũi tên xuyên phá vùng vô minh, như những ánh lửa trời xua tan mọi vùng bóng tối. Đoàn chiến mã đó quả không hề nhục nhã dù có phải nhận chịu thất bại đắng cay.

'Thất bại không nhục nhã' vậy 'chiến thắng có vinh quang'? Không, với những người như Song Nhị 'bại không nhục mà thắng cũng không vinh'. Tại sao? Tại vì Song Nhị là nhà thơ, là một nghệ sĩ. Song Nhị và những nhà thơ như Song Nhị đi vào lính, vào chiến đấu không để tìm 'vinh' và không phải để phải 'nhục' vì không 'vinh'. Cuộc đời bắt buộc phải 'ra đi' dù chỉ là đi chơi, đi dạo, đi chợ, đi học, đi du lịch hay 'đi' theo nghĩa của gái giang hồ hoặc 'đi' vào một nghiệp nghề kiếm sống bình thường (đi cày, đi làm, đi buôn, đi ở đợ,…) hay 'ra đi' theo một khuynh hướng, chí hướng nào (đi lập nghiệp, đi tu, đi làm Cách mạng, đi chiến đấu, đi vào triết lý, khoa học, nghệ thuật,…), không một ai không một lần 'ra đi', 'Parting is all we need of hell'; khác nhau nơi sự việc, trường hợp, cảnh ngộ đã đưa đẩy việc ra đi, khác nhau nơi chủ đích, nơi ý hướng và tình tự lúc ra đi, trên hành trình ra đi. Song Nhị đã 'đi vào lính', làm thân 'chiến mã' vì nghĩa vụ, đã đành nhưng với tất cả tâm hồn nghệ sĩ nơi mình (điều nầy xin nói sau). Song Nhị đã 'trên nhánh đời chập choạng, ngồi hót thời biệt ly' (trích trên) và:                                  

ta đã ra đi từ một ngày như hãy còn quá mới                                         
có những khoảng thời gian                                       
tưởng như rỗng tuếch nhẹ hời                                       
nhưng lại ắp đầy trĩu nặng                                      
Ta không thể nói những gì hiện hữu                                       
Là nhất thiết tuyệt vời                                       
Như bên tai vẫn vang vọng rêu rao                                       
Đủ điều thiện mỹ                                       
Mà từ hiện hữu nầy ta mới thấy
những gì thực sự có                                                        
 (Từ Giữa Ngục Tù Đi Tới)

"Từ hiện hữu nầy ta mới thấy những gì thực sự có", đúng thế. Gặp phải thất bại, buồn đau, con người thường bi quan, chán nản hay quyết chí vùng lên xóa tan cái hiện hữu đang ê chề, tăm tối để tạo nên một hiện hữa khác đẹp đẽ, tốt tươi cho cuộc sống của mình. Thường mọi người đều như thế và ý chí, hy vọng con người quy tụ vào đấy.
Với Song Nhị, có nét gì khác hơn. Song Nhị đang chứng kiến, đang sống trong hai thứ "hiện hữu": hiện hữu của chính bản thân mình và của những thành phần chiến bại đang phải trải chịu đày đọa, khổ đau và cái hiện hữu phải nghe và bị bắt buộc phải tin, phải theo bao "điều thiện mỹ" liên tiếp vang vọng rêu rao ra rả đêm ngày. Hai hiện hữu trái ngược nhau nhưng chính cái hiện hữu thứ hai nầy lại làm cho cái hiện hữu ê chề kia có ý nghĩa và cũng chính cái hiện hữu thứ hai nầy càng giúp cho ta nhìn ra được những gì "thực sự có" cho con người, cho cuộc sống. Chính phải sống trong những điều giả mị, ta mới đòi hỏi, khát khao, tranh đấu cho những gì chân xác, đúng đắn, đẹp tươi.
Đoạn trích trên đủ cho ta thấy sự 'ra đi' của Song Nhị chất ngất tâm trạng nào và mang chở ý nghĩa ra sao. 'Tiếng hờn chiến mã' thúc giục 'ra đi'. 'Ra đi' để tiếp tục cuộc hành trình trong cõi thế vì còn phải 'oằn lưng gánh lấy hồn sông núi, heo hắt trong lòng đóm lửa thiêng'. Cũng như bao người, anh 'chạy trốn hòa bình', thứ hòa bình 'xã hội luông tuồng trong bệnh hoạn, con người con thú có gì hơn'  và 'lễ nghĩa thay bằng câu dối trá' (về đây), thứ hòa bình của bạo  quyền, bạo lực xoáy nát lương tâm,  chôn vùi đạo lý,  chà đạp quyền sống, phủ nhận tình người; thứ hòa bình khóa bịt miệng mồm, thắt đai dạ dày dân dã; thứ hòa bình trát trấu bôi tro, xéo dày, giẫm nát óc tim tâm hồn nghệ sĩ:                                           
Ngọn sóng cuồng lưu xóa vùi đạo lý                                       
Nhân loại ai còn tiếng gọi từ tâm                                       
Ngôn ngữ văn chương lời rao quỷ dữ                                       
Đâu đó hồn thơ máu chảy tim người                                                                   
(Đổi đời – THCM)
Anh đã từng bị bắt buộc 'Ra đi' bởi bọn người chiến thắng, 'ra đi' để trả 'món nợ' (?) kẻ bại binh, mặc kẻ thù đày đọa. Và dù có phải 'ra đi' như thế nhiều lần thêm nữa thì vẫn không nguôi quên tiếng hờn chiến mã, vẫn luôn luôn là dòng máu Việt Nam, không bán lương tâm mình cho quỷ dữ, không bao giờ buông bỏ căn tính giống nòi.                                      
Mai kia nếu phải ra đi nữa                                       
nếu phải đầu thai một cõi nào                                       
xin mãi làm người con nước Việt                                       
dẫu lòng còn đó nỗi buồn đau.                                                        
     (Về Đây – THCM)   

[ Còn tiếp ]

No comments:

Post a Comment

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...