Thursday, April 25, 2013

BIỂN GỌI - PHONG THU



PHONG THU

Sinh tại Bình Dương, Việt Nam.  Học tại Đại Học Sư Phạm Sài Gòn  Tốt nghiệp Cử nhân Văn Chương và Tâm Lý Giáo Dục  Giảng viên trường Cao Đẳng Bình Dương.
 Bắt đầu viết từ năm 1980. Hiện là Phóng viên đài Á Châu Tự Do RFA

Tác phẩm:
 The Rain Still Falls In Sai Gon – Sài Gòn Mưa Vẫn Rơi 2011 - truyển tập truyện song ngữ Anh Việt, do nhà xuất bản XLibris Corporation [www.Xlibris.com] xuất bản và phát hành toàn cầu qua các website: Amazon.com; XLibris.com; Barnesandnoble.com và Ebook.
 Tập truyện thiếu nhi: “Gấu Bông Giúp Bạn”, trong đó truyện “Vì Sao Hoa Phượng Đỏ” được xưởng phim tổng hợp dựng thành phim truyện dành cho thiếu nhi (1990).  Cô Bé Bên Giàn Hoa Giấy Đỏ, Truyện ngắn in tại Hoa Kỳ năm 2003. 
 Đóa Phù Dung, tập truyện ngắn 2005 

***

BIỂN GỌI
truyện
  
“Má ơi! Tàu ông Sấm lớn lắm. Lớn bằng cái đình làng”.
Bà Mụ đang ngồi đan lưới nghe tiếng nói hổn hển của thằng Biển, bà dừng tay lại, ngước mắt nhìn khuôn mặt khét nắng của nó đang hí hửng khoe người bạn mới quen. Nghe nó nhắc tới ông Sấm là bà không mấy thích. Bà nạt thằng nhỏ:
“Mi đừng có lại gần ông ta. Tao không thích ông ta”
Thằng Biển tiu nghĩu hỏi:
“Tại sao vậy má?”
Bà Mụ bực bội nói sẳng:
“Mi đừng có hỏi mãi làm tao bực mình. Đi ra ngoài chơi cho tao vá lưới”.

Thằng Biển bỏ đi. Nó lang thang, thơ thẩn một hồi rồi cũng đi ngang căn lều tranh của ông Sấm. Nó dừng lại ngắm nhìn con tàu to lớn, khác thường, hùng vĩ đang nằm phía sau căn chòi sát mép biển của ông Sấm. Chiếc thuyền ngạo nghễ phơi mình dưới ánh nắng gay gắt, nổi bật trên một vùng cát trắng. Thằng Biển cảm thấy tự hào, ao ước được một lần đặt chân trên con tàu đó và được ra khơi với ông Sấm. Nó còn mơ được lên trên vọng gác cao chót vót trên tàu để được ghé mắt vào cái kính viễn vọng mà người ta đồn rằng rất hiện đại.

Nó không biết tại sao má nó không thích người đàn ông dễ mến như ông Sấm. Ngay cả những người trong làng chài lưới cũng truyền miệng nhau về một người lạ mặt không rõ gốc gác. Không ai biết người đàn ông tên Sấm là ai? Ông ta từ đâu tới? Họ chỉ biết rằng đó là một người vui tính, có tiếng cười rền vang. Cái miệng rộng, vầng trán phẳng lì bướng bỉnh, mái tóc rễ tre lởm chởm và vóc dáng lực lưỡng, rắn chắc. Người trong làng ban đầu nhìn ông Sấm với vẻ e ngại vì cái tướng bậm trợn của ông. Nhưng lâu dần, ai cũng thấy ông không quấy rầy làng xóm, không làm phiền ai. Ông hiền lành và tử tế với trẻ con trong làng. Vì vậy mà ông được chính quyền địa phương và ngư dân làm lơ cho ông sống. Đặc biệt là ông mê nghiên cứu về thuyền. Những chiếc thuyền đánh cá to lớn nhất trong làng ông Sấm đều đến nghiên cứu xem thử. Chiều chiều, người ta thấy ông ngồi tư lự bên bờ biển hàng giờ. Ông thật sự cô đơn trong ngôi làng đánh cá nghèo nàn nầy.

Rồi bỗng dưng, ông Sấm mua về rất nhiều gỗ và mướn nhiều thợ tài ba trong làng đóng thuyền đánh cá. Chiếc thuyền của ông to lớn nhất làng. Hai đầu tàu nhọn như một mũi tên có vẽ bốn con mắt của con cá voi to, đen sắc lẽm. Toàn thân tàu sơn màu xanh nước biển. Một cột buồm cao, to. Bên trên có một vọng gác với một hệ thống kính viễn vọng có thể nhìn xa hàng mấy chục dặm. Ngoài ra, hai bên hông tàu còn có bốn chiếc tàu nhỏ để phòng khi gặp nạn, có thể hạ thủy để cứu người. Ông Sấm đang kêu gọi tập hợp những người yêu biển, có kinh nghiệm ngư trường, có tài bơi lội giỏi để trở thành một đội ngư phủ hùng mạnh ra khơi đánh cá. Thằng Biển mon men đến gần chiếc tàu và sờ tay lên thân tàu. Mùi gỗ và mùi nước sơn còn mới tinh xộc vào mũi nó. Bóng ông Sấm hiện ra bên căn chòi nhỏ. Không chờ cho thằng Biển lên tiếng, ông Sấm hỏi:
“Cháu có thích đi biển không?”
Thằng Biển mắt sáng rỡ đáp:
“Thích lắm.”

Ông Sấm tiến về phía nó và tiếp:
“Cháu có đi ra biển lần nào chưa?”
Thằng Biển nhìn ra biển, giọng nó yếu xìu:
“Có, mấy năm trước kia. Khi cháu mới có bảy tám tuổi thôi, ba cháu thỉnh thoảng đem cháu theo khi biển êm, gió lặng. Rồi ba cháu bị tàu Trung cộng bắt, bị họ đánh đập và đòi tiền chuộc đến cạn kiệt nên không còn tiền để đi đánh cá. Năm rồi ba cháu đã bị mất tích.”
Mặt thằng Biển đầy nước mắt. Nó hỉ mũi rồn rột rồi ngước nhìn ông Sấm và nói tiếp:
“Từ khi ba cháu không trở về, má cháu và cháu sống rất khổ sở.
Má vá lưới kiếm tiền nuôi cháu. Ngày nào cháu cũng ra biển ngóng trông ba trở về mà có thấy đâu.”

Ông Sấm đưa bàn tay sần sùi, to như nải chuối sứ xoa đầu nó an ủi:
“Chú hy vọng ba cháu còn sống trở về với gia đình.”
Nó chùi nước mắt bằng vạt áo nhầu nát và hỏi:
“Ngày mai chú hạ thủy chiếc tàu nầy và ra khơi đánh cá phải không? Có bao nhiêu người đi chung?
“Mười người. Họ là những thanh niên khoẻ mạnh, có kinh nghiệm về biển, bơi lội giỏi. Tất cả đều là người trong làng mình.”
“Chú cho cháu đi theo chú cho vui. Cháu cũng biết bơi lội giỏi và còn biết nấu cơm cho chú ăn.”
Ông Sấm cười lớn:
“Cháu còn bé lắm! Nên ở nhà với mẹ. Biển của mình bây giờ không còn bình yên như xưa. Cháu không biết rằng đã có nhiều người đi đánh cá rồi không bao giờ trở về nữa cũng như ba cháu đó. Những chiếc tàu lạ, to lớn, bằng thép đã tấn công tàu ngư dân và cướp bóc, giết hại họ. Bọn nầy hung ác hơn cả hải tặc trên biển. Chú đi đánh cá để khuyến khích mọi người ra khơi. Nếu không, ngư dân mình chết đói.”
Ông Sấm dẫn nó vào trong căn chòi của ông. Ông mở lu xúc cho nó một ít gạo, một ít khô, và dúi vào tay nó một ít tiền. Ông dịu dàng nói:
“Cháu mang về đi. Chú biếu cháu làm quà. Có thể chú đi cả tháng mới quay về. Cầu nguyện cho chú nhé!”
Thằng Biển mừng rỡ cầm lấy nhưng nó cũng lo lắng nói”:
“Má cháu không cho cháu nhận quà của chú cho. Cháu phải làm sao?”
“Đừng nói chú cho mà nói ai cho cũng được. Thôi cháu về đi. Chú còn lo nhiều việc cho ngày mai.

***
Dân làng thức dậy thật sớm để xem chiếc tàu Sấm Chớp ra khơi. Nhiều người có thân nhân là thủy thủ trên tàu đã bày nhang đèn, bàn thờ gần biển để cúng bái, cầu nguyện cho con cháu mình ra đi và trở về bình yên. Chiếc thuyền của ông Sấm đã hạ thuỷ trong đêm và sáng hôm nay chuẩn bị giăng buồm ra khơi.
Mọi người ao ước sẽ đánh một mẻ lưới lớn và bắt được nhiều cá. Hàng chục thanh niên lực lưỡng, can đảm và thông thạo nghề đánh cá đã tình nguyện tham gia đội đánh cá của ông Sấm. Họ nhìn chiếc thuyền bằng gỗ nhưng vững chắc và thiết kế hoàn toàn mới mẻ nên cũng ao ước được đặt chân trên con tàu mới nầy.

Ông Sấm đeo một túi vải trên vai và xách theo một cái xách tay làm bằng da rất đẹp có in hình bản đồ Việt Nam và con tàu Sấm Chớp. Ông bước đi chậm rãi và vẫy tay chào tất cả dân làng. Mọi người chúc mừng, reo hò, tạm biệt trong nỗi vui mừng pha lẫn nỗi lo âu. Làm sao ông biết trước được ông có trở về hay không? Biển dữ dội nhưng biển không đáng sợ bằng con người. Đã có bao nhiêu ngư dân làng nầy ra đi rồi vĩnh viễn không trở về. Bao nhiêu con tàu đã bị tàu lạ đâm chìm? Bao nhiêu người mẹ khóc con, vợ khóc chồng, và bao trẻ mồ côi ngồi khóc đợi cha về? Làng chài cá nầy đã quá nghèo nàn, quá khốn khó. Còn ai mang lại cho họ một tia hy vọng vào ngày mai biển lặng sóng êm và họ có thể ra khơi đánh cá, an toàn trở về để nuôi gia đình. Hàm râu của ông động đậy và ông cố gắng nở một nụ cười như trấn an mọi người. Ông định bước lên chiếc xuồng nhỏ để ra tàu lớn thì có tiếng thằng Biển gọi:
“Chú Sấm chờ cháu với!”
Ông đưa một cánh tay ra. Thằng Biển chạy xuống ôm lấy ông. Nó vừa thở hổn hển vừa nói:
“Má cháu không cho cháu đi gặp chú. Cháu phải trốn đi đó.”
Ông xoa đầu nó đáp:
“Vậy à? Sao cháu không ở nhà để má cháu không lo lắng. Ra đây làm chi.”
Thằng bé nhìn ông. Mắt nó chớp chớp như muốn khóc:
“Cháu lo lắm! Cháu lo chú sẽ không… trở về nữa?”
“Sao cháu nghĩ vậy? Chú sẽ trở về và hai chú cháu mình sẽ có dịp đi câu cá bên kia đồi Hùng-Linh.”

Một hàng nước mắt bỗng chảy dài trên má nó. Nó thổn thức:
“Chú có biết là thằng Cẩn và chiếc ghe của ba nó đã bị tàu lạ đánh chìm. Nó chết rồi chú ơi! Nó chết đêm qua. Thằng bạn học của cháu đó mà… hu… hu. Cháu sợ chú cũng… như nó, như ba cháu và nhiều người đánh cá khác không bao giờ còn trở về… hu…hu..”
Nó khóc lớn đến mức những người xung quanh quát lớn:
“Thằng ranh nầy chỉ quở những điều xấu. Không tốt đâu… đi về đi.”
“Rõ rắc rối. Mới khởi hành đã quở rồi. Vậy còn làm ăn gì được.”
“Tàu mình lớn, đồ sộ hơn những chiếc tàu khác thì sợ quái gì. 
Ăn nói đểâu không?”
Có tiếng má nó gọi lớn:
“Biển. Mầy ở mô? Về nhà mau.”
Thằng Biển nắm tay ông Sấm từ biệt:
“Má cháu đang đi tìm cháu. Mỗi ngày cháu sẽ ra đây chờ chú. Cháu sẽ thắp nhang khấn vái thần linh, thần biển giúp chú bình an.

Đôi mắt thằng bé lo âu pha lẫn nỗi tuyệt vọng. Nó như biết trước những điều không may sẽ xảy ra cho đoàn tàu đánh cá của ông Sấm. Nó cũng nhớ lại nụ cười, nét mặt của ba nó cách đây một năm cũng trên bãi cát nầy, trên bờ biển xanh ngát, mặt nước cuộn lên những đợt sóng dội vào bờ mãi mãi giữ kín những điều bí ẩn. Ba nó mất tích trên biển không thể tìm được xác. Nó mồ côi và lang thang mỗi chiều trên bãi cát mịn màng, êm dịu dưới chân. Nó có cảm giác trái tim quặn thắt, bồi hồi và nhớ ba nó. Mỗi lần thấy một con tàu đánh cá nhấp nhô xa xa, nó cứ hy vọng chờ đợi… và rồi nó thất vọng. Nước mắt nó ứa ra. Nó nằm úp mặt xuống cát ướt và khóc một mình. Bây giờ, nó quen với một người bạn lớn là ông Sấm. Nó cảm thấy thân thiết và quý mến tình tình hào phóng, nghĩa hiệp của ông. Hôm nay, ông ra khơi đánh cá. Nó bị ám ảnh cái chết của thằng bạn đêm qua nên không thể ngủ được. Và nó đã thức dậy sớm ra đây tiễn ông đi. Nó nhét vào tay ông một cái giàn thung bắn chim:
“Chú gặp bọn ác là bắn vào đầu cho nó chết đi.”
Ông Sấm cầm giàn thung trên tay ngắm nghía cười và hôn lên tóc nó:
“Cái giàn thung nầy chỉ để bắn mấy con chim không biết bay thôi... ha ha… Nhưng chú sẽ giữ trên tàu làm kỷ niệm. Chú hứa sẽ trở về. Hãy tin như vậy nhé!”
Má nó chạy ào xuống bãi biển. Bà nắm tay thằng Biển lôi xệch lên bờ. Bà vừa đi vừa càu nhàu:
“Tao biểu mi đừng có đi gặp ông ta. Nhưng mi không nghe. Muốn ăn đòn đó hả?”
Thằng Biển không thèm nghe má nó nói gì. Nó ngoái đầu lại nhìn ông Sấm và hét vang:
“Cháu sẽ chờ chú tại đây. Chú nhớ trở về nhé!”

Tháng năm biển êm, gió lặng. Mặt nước xanh biếc và báo hiệu mùa đánh cá phát đạt. Ngư dân rất vui mừng. Họ đã chuẩn bị ra khơi đánh cá. Nhưng lệnh của bọn Tàu cộng lại tiếp tục áp đặt lên toàn bộ biển Đông là “cấm đánh cá” cho đến hết tháng 8. Dân Ngư Sơn treo lưới. Họ không sợ bọn cướp biển mà sợ bọn Tàu cộng tham lam, độc ác. Bao đời nay, người dân đánh cá, bám biển cha ông để mưu sinh. Nay, biển trở thành tử địa. Nhiều ngư dân trong làng treo lưới ngồi nhìn biển. Ngôi làng êm đềm nầy đã nghèo càng nghèo thêm. Họ là những người cả đời bám biển, sống với biển và cũng chết với biển. Có người cả dòng họ mấy trăm năm sống bằng nghề đánh cá. Họ yêu biển như yêu mái ấm gia đình. Giờ đây họ phải đối diện với hiểm họa mất biển, mất ngư trường để mưu sinh. Có hàng trăm người đi đánh cá gần Hoàng Sa đã bị tàu Tàu Cộng bắt bớ, đánh đập và đòi tiền chuộc khiến họ bị phá sản. Có nhiều người bị những chiếc tàu “Ma” mà chính quyền Việt Nam gọi là tàu lạ đâm chìm rồi bỏ chạy. Xác ngư dân phơi trên biển làm mồi cho cá mập. Chưa bao giờ dân làng Ngư Sơn ghét và sợ bọn Tàu cộng như hiện nay. Họ không dám ra khơi đánh cá và tránh xa khu vực đảo Hoàng Sa, hòn đảo đã bị Tàu cộng chiếm từ năm 1974. Chính quyền Việt Nam bất lực, không giúp được gì cho dân ngoài những lời tuyên bố chung chung. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, nên có tiền Tàu cộng muốn chứng tỏ sức mạnh cơ bắp của một tên võ biền hung tợn, tham lam và thực dụng. Chính quyền Tàu Cộng vẽ sơ đồ chín đoạn gọi là đường lưỡi bò để liếm hết biển Đông. Tiền bạc Tàu cộng đổ vào chế biến vũ khí, máy bay, tàu chiến, tàu ngầm, tàu sân bay, hoả tiễn… hàng năm cứ tăng lên. Các nước trong khu vực sợ khiếp vía. Và dĩ nhiên, ngư dân sống quanh bờ biển Việt Nam cũng sợ vì sự tàn ác và thâm hiểm của bọn Chệt.

Ông Sấm biết tình hình biển không dễ dàng cho chuyến đi khai trương đánh cá của con tàu Sấm Chớp. Nhưng ông tin rằng nếu ông phá tan sự sợ hãi của ngư dân thì người dân sẽ nương theo ông mà làm. Chẳng lẽ mọi người ngồi bó gối chờ chết đói. Có tàu, có nghề mà không tìm ra được một con cá để ăn thì khốn nạn biết bao. Sao dân mình phải khổ đến như vậy? Đại dương do trời đất sinh ra, cá không ai nuôi dưỡng sao lại có kẻ mặc nhiên tự nhận là của mình. Bọn tham tàn nầy muốn vơ vét của cải thế gian để làm giàu bất chấp đạo lý. Ông Sấm biết rõ, tàu ngư dân nho nhỏ, bằng thúng, bằng gỗ làm sao chạy và địch nổi tàu của Tàu cộng. Tàu chúng làm bằng sắt của quân đội nguỵ trang, có súng ống và sẵn sàng bắn giết ngư dân rồi đổ thừa cho cướp biển hoặc tàu các nước khác. Chúng xuất hiện bất ngờ rồi đâm ngang thân tàu làm tàu vỡ làm đôi rồi bỏ chạy, để mặc cho ngư dân bị thương và chết chìm dưới biển.

Ngày đầu tiên ra khơi, tàu ông Sấm lưới được rất nhiều cá. Mọi người vui mừng. Họ đem cá ướp vào những thùng nước đá lớn và chờ những thương thuyền mua cá cặp vào để bán. Tiếng hò reo, cười nói, vui mừng của họ làm ông Sấm cũng vui lây. Đêm xuống nhanh, mặt biển đen sẫm. Những đợt sóng lao xao vỗ vào mạn tàu. Những con chim hải âu bay chập chờn trên gợn sóng đớp mồi. Tiếng kêu của nó vang dội giữa không gian bao la. Ánh trăng khuyết vừa nhô khỏi chân trời và ló dạng trên mặt biển cuối đường phẳng của chân mây. Ánh sáng màu bạc nhả những tia sáng lấp lánh trên mặt biển. Buổi ăn tối dọn ra trên khoang tàu. Mọi người râm ran trò chuyện. Họ chuyền cho nhau những ly rượu nấu bằng nếp uống cho ấm bụng. Nửa đêm, ông Sấâm vẫn chưa ngủ. Cảm giác bồn chồn, lo lắng không yên làm ông không thể chợp mắt. Giác quan thứ sáu báo cho ông biết sắp có biến cố xảy ra. Mảnh trăng lưỡi liềm trắng sáng, long lanh nghiêng mình làm duyên trên bầu trời đêm với hàng triệu tinh tú bao quanh. Ánh trăng soi rõ mặt nước đen thẩm. Điện thoại trong túi quần của ông reo vang. Tiếng của Ngà từ trên vọng gác gọi báo động:
“Có tàu lạ đang tiến về phía chúng ta”
“Anh có xác định cờ của nước nào không?”
“Tối quá nên tôi không thấy gì cả. Chỉ thấy một vệt sáng và một bóng đen lớn đang di động.”
Ông Sấm hối hả nói:
“Báo động gấp để mọi người chuẩn bị kế hoạch.”

Tiếng còi hụ từng chập vang lên trên boong tàu. Tiếng chân chạy rầm rập và mọi người hối hả thả những chiếc thuyền cấp cứu xuống nước. Ông Sấm ra lệnh:
“Mọi người xuống tàu nhỏ, mặc phao an toàn vào và chuyển cá đi gấp. Nhanh lên.”
Ông chạy lên chạy xuống nhắc nhở mọi người. Khi tất cả đã ở trên ghe nhỏ, ông ra lệnh:
“Bơi thật nhanh và nhẹ nhàng đừng gây tiếng động. Không được nói chuyện và sử dụng đèn để tránh phát hiện. Nhớ mặc áo bơi. Điện thoại di động nên bỏ vào bọc ny-lon để tránh bị ướt. Nhớ có chuyện gì thì bỏ thuyền và bơi cho nhanh rồi gọi cấp cứu.”
Nhiều anh em lo lắng hỏi:
“Còn thuyền trưởng? Ông không đi với chúng tôi sao?”
“Tôi không thể bỏ tàu. Các anh còn có vợ con, gia đình. Còn tôi chỉ có một mình. Tôi không sao đâu. Đi nhanh lên.”
Một người khác lên tiếng:
“Anh không đi thì tôi cũng không đi. Chúng tôi sống chết với anh.”
“Đúng rồi. Tại sao gặp nạn lại bỏ anh một mình chớ. Chúng tôi không đi.”
“Tôi cũng vậy.” - Người thanh niên da bánh mật, nét mặt đanh lại quả quyết nói.
Ông Sấm giải thích:
“Như hợp đồng các anh ký với tôi là nếu có biến động bất thường, tôi là người có quyền quyết định. Các anh còn có gia đình để lo. Còn tôi chẳng có ai. Nếu tôi bị bắt một mình thì các anh còn lo cho tôi. Nếu tất cả cùng bị bắt thì ai lo đây? Nhanh lên… đừng chậm trễ. Nhớ tắt hết đèn pin và cho tàu chạy thật nhanh. Có tôi đón đầu họ.
Mọi người ôm ông lần sau cùng rồi lặng lẽ xuống những chiếc thuyền nhỏ nổ máy và chạy hết tốc lực. 

Khi chiếc thuyền cuối cùng vừa chìm vào bóng đêm của biển thì con tàu đồ sộ đã tiến gần chiếc tàu Sấm Chớp. Nó như một bóng ma lao vun vút và không hề giảm tốc độ khi đến gần tàu ông. Một đợt sóng cao ngất cuồn cuộn tung lên mặt biển va đập vào mạn tàu làm nước bắn tung toé. Chiếc Sấm Chớp chồm lên rồi hụp xuống. Ông Sấm định thần nhìn kỹ và nhận ra hàng chữ Tàu in rõ trên hông tàu. Bốn người đàn ông ăn mặc như ngư dân, tay lăm lăm dùi cui trong tay nhảy sang tàu ông. Bốn người khác dùng neo quăng sang và cột con tàu Sấm Chớp dính với con tàu sắt. Một người đàn ông vóc dáng lực lưỡng, cằm bạnh, tóc cắt ngắn có lẽ là thuyền trưởng nói như hét bằng tiếng Việt giọng Bắc rặc khiến ông Sấm hết sức ngạc nhiên:
“Ai cho mấy người đến đây đánh cá? Đây là vùng biển thuộc chủ quyền của chúng tôi. Các người đến đây cướp tài nguyên của chúng tôi.”
Ông Sấm nghe những tên Tàu cộng khác nói tiếng Tàu xí xa, xí xố chửi bới, la lối om sòm. Một nhóm người khác lại nhảy sang tàu ông và chúng bắt đầu lục xét trên tàu. Nồi niêu, xoong chảo, chén bát bị đập phá tan tành. Quần áo bị vứt tứ tung trên sàn nhà. Chúng vừa tìm kiếm vừa hét, vừa chửi bới. Ông Sấm phản đối:
“Các ông không có quyền làm như vậy vì đây thuộc hải phận của Việt Nam. Tôi đánh cá trong vùng biển của nước tôi. Các ông mới là những người ngang ngược.”
Một cái dùi cui quất thẳng trên lưng ông làm ông té nhào xuống sàn tàu. Dù đau đớn ông không rên một tiếng nào. Ông Sấm chưa kịp đứng dậy thì một đám người xúm nhau lại, kẻ đá, người đấm tới tấp. Ông chỉ còn ôm đầu, khoanh người lại để tránh không bị trúng chỗ nhược. Một người trong nhóm họ la lên vẻ tức giận:
“Trên tàu hắn không có gì cả. Cũng không có cá luôn.”
Tên thuyền trưởng hỏi: 
“Không có cá hả? Trên tàu rất nhiều đồ đạc mà chỉ có một mình ông thôi sao? Mấy người kia đâu rồi?”
“Không có ai cả.” - Ông Sấm đáp.
Hắn dùng đèn pin rọi vào mặt ông rồi ra lệnh:
“Ông có tiền, có vàng để đền bù thiệt hại về tội xâm phạm lãnh thổ chúng tôi ăn trộm cá thì tôi tha cho. Bằng không thì ngồi tù.”
“Tôi đi biển làm gì có tiền.” - Ông Sấm nói.
“Hứ! Tàu ông đồ sộ, hiện đại hơn những chiếc tàu khác. Ông giàu hơn những người kia. Nếu ông không có vàng, hay tiền thì chúng tôi nhốt tù ông không có ngày về.”
Ông Sấm nhìn hắn một phút rồi ông chậm rãi đáp:
“Được rồi. Ông chờ tôi một lát. Tôi có một vali vàng và tiền đô.”
“Thật không?”
“Tôi giấu dưới hầm tàu. Các ông chờ tôi đi lấy cho.”
“Được. Tụi tao chờ. Nếu mầy nói láo thì đừng có trách tụi tao. Đi nhanh lên.”

Ông Sấm leo xuống hầm tàu. Ông cầm đèn pin soi khắp nơi và ông cuối cùng ông lôi từ trong một chiếc thùng gỗ lớn một cái vali mạ vàng còn mới tinh và óng ánh. Ông chuyển chiếc va-li lên sàn tàu. Bọn Tàu nhìn chiếc va-li sang trọng, óng ánh thì biết là có của qúy bên trong. Mắt chúng sáng lên. Chúng trao đổi với nhau rất sôi nổi. Bọn chúng thay phiên nhau cố gắng mở cái vali nhưng không thể mở được. Chúng hỏi ông Sấm:
“Chìa khóa đâu?”
Ông Sấm cười khẩy đáp:
“Nó tự động.”
“Vậy mầy mở ra cho tụi tao.”
Ông Sấm lắc đầu nói:
“Tôi không nhớ hết những con số để mở cái vali nầy. Các ông có thể mang đi và tìm cách mở ra.”
Cả bọn giận dữ, quát tháo. Một tên định dùng dùi cui đánh ông. Ông phân trần:
“Các ông đánh tôi vô ích vì đây là tài sản chung của mọi người trên tàu nầy. Họ không có ở đây nên những con số họ không cho tôi biết hết. Nhưng chắc chắc trong đó là 100 lượng vàng và 200.000 tiền đô. Các ông mang về rồi mở ra đâu có muộn. Tôi chỉ van xin các ông tha cho tôi trở về quê hương.”
“Thằng nầy muốn chết chắc. Không có chìa khoá thì tụi tao phá ra là được ngay. Cần gì điều kiện.”
“Quăng nó xuống biển.”
“Ừ quăng nó xuống biển đi.”
Ông Sấm lùi lại. Ông cố gắng giải thích:
“Tôi đã đánh tín hiệu vào bờ. Tàu hải quân Việt Nam sẽ ra đây cứu tôi. Nếu các ông muốn giết tôi thì bạn bè tôi và chính phủ tôi sẽ lên tiếng với báo chí quốc tế. Điều nầy sẽ làm cho hình ảnh của nước ông xấu đi. Các ông sẽ mang tiếng là những tên cướp biển tàn bạo.”
Tên thuyền trưởng gầm lên:

“Câm miệng. Tao giết mầy như giết một con cá tanh hôi. Mầy tưởng tụi tao sợ hải quân của mầy hả. Mấy thằng chuột chết đó giờ đây chỉ lo nhậu, chơi gái, buôn lậu, làm giàu, ăn chơi. Chúng nó sợ chết lắm! Tiền của nhiều quá chết thì ai hưởng. Mầy là thằng ngu mới tin bọn đó đến đây cứu mầy. Hừm! Phải mở ngay cái va-li nầy ra để tao biết là có tiền thiệt hay giả. Không thì tao bắn mầy ngay.”
Hắn rút cây súng ngắn đeo ở thắt lưng ra và lên đạn:
“Mở ra ngay lập tức.”
Ông Sấm sợ hãi khoát tay:
“Tôi mở ra ngay với điều kiện là các ông đừng tịch thu tàu của tôi.”
“Không có điều kiện gì hết. Chết đến nơi mà còn đòi hỏi.”
Mũi súng lạnh như thép chĩa thẳng vào thái dương ông Sấm. Ông trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:
“Thôi ông cất súng vô đi. Tôi ráng nhớ những con số và tôi sẽ mở.”
“Tốt lắm!”
Tiếng nói chuyện lao xao của bọn Tàu làm ông nhức cả óc. Ông làm bộ vặn tới, vặn lui, đổi số liên tục và cuối cùng nắp va-li bật lên. Bên trong, từng xấp tiền 100 đô la xanh lè nằm xếp hàng thẳng lối. Chúng hau háu sờ mó tiền và những thỏi vàng nằm dưới đáy va li sang lấp lánh dưới trăng. Lợi dụng lúc chúng còn đang bàn tán, đếm tiền. Ông Sầm lùi dần về phiá sau và bất thần lao nhanh xuống biển. Cả thân hình cao lớn của ông chìm khuất dưới lòng đại dương. Cả bọn nhốn nháo, la lên:
“Hắn trốn rồi. Bắt hắn lại.”
Tên thuyền trưởng nhìn biển lạnh lẽo, đen ngòm cười lớn:
“Biển mênh mông như vậy thì cá mập cũng làm thịt hắn. Tụi bây khỏi lo. Mình có chiến lợi phẩm rồi. Tiền-vàng và con tàu đẹp nầy… ha…ha.. trúng mánh rồi.”

Vừa nhảy xuống biển. Ông Sấm vội vàng lặn sâu dưới lòng tàu. Nước biển mặn và lạnh hơn ông tưởng tượng. Ông lặn sâu và bơi dần tránh xa con tàu. Đèn trên tàu của bọn Tàu cộng vẫn sáng choang. Chúng có tiền và vàng nên không màng đến kẻ liều mạng nhảy xuống biển sâu mênh mông vào nửa đêm. Chúng tin rằng ông sẽ chết. Chúng không cần phải ra tay để mang tiếng xấu là giết người, cướp của. Tàu chúng khởi động và bắt đầu di chuyển mỗi lúc một nhanh kéo theo chiếc tàu Sấm Chớp của ông Sấm.

Ông bơi một đoạn khá xa và biết chắc chắn đã an toàn. Lòng ông vui mừng khôn tả khi đã thoát khỏi họng súng của bọn cướp. Ông cố gắng bơi thật nhanh, thật xa để không bị bọn chúng trông
thấy. Ông còn sợ bọn chúng thay đổi ý định bắt ông trở lại. Khi ông đã bơi khá xa, cũng là lúc ông nghe một tiếng nổ lớn. Mặt nước rung chuyển, sóng dâng thật cao, to như mái nhà và ập xuống đầu ông. Tiếp theo sau là một ngọn sóng khác đưa ông lên cao rồi ném ông xuống một cái hố nước đen ngòm. Ông uống nước sặc sụa. Nhưng ông biết chuyện gì đã xảy ra nên cười lớn:
 “Ha…ha… vàng đó tụi bây hưởng đi. Đáng kiếp cho bọn tham tàn, độc ác. Một bài học cho bọn bây đó. Tao hy vọng dân tao sẽ giết tụi bây như những con giòi…. ha…ha…”
Một vùng biển bốc lửa, khói đen nghi ngút bao trùm cả mặt biển…xa xa những đàn chim hải âu bay lên hoảng loạn…

***
Thằng Biển cầm tờ báo trong tay. Nó đọc đi đọc lại hoài một bản tin mới đăng trang nhất với cái tít chạy thật lớn đập vào mắt nó:
 “Một Chiếc Tàu Ngư Chính Của Trung Cộng Bốc Cháy.”


Tin Đà Nẵng: Đêm 18 tháng 5 năm… một chiếc tàu ngư chính của Trung Cộng mang số 20129102 đã bốc cháy ngoài khơi cách đảo Hoàng Sa 200 hải lý. Cùng với chiếc tàu nầy còn có một con tàu đánh cá mang tên Sấm Chớp của ông Nguyễn Văn Sấm. Chiếc tàu nầy mới vừa hạ thuỷ vào tuần trước. Nghe nói tất cả ngư phủ tham gia đánh cá trên chiếc tàu đã được lệnh của thuyền trưởng xuống ghe nhỏ và trở về an toàn. Nhưng ông Nguyễn Văn Sấm là người đã ở lại bảo vệ chiếc tàu Sấm Chớp. Chiếc tàu ngư chính của Trung Quốc bị nổ tung và bốc cháy giữa biển. Tất cả những người trên tàu đều chết, không tìm được xác. Hiện nay, chính quyền Việt Nam và Trung quốc đang mở cuộc điều tra hỗn hợp để tìm ra nguyên nhân….
Đọc xong bản tin, tim nó đập rộn lên niềm vui. Ai chết thì nó buồn nhưng bọn Tàu khựa chết thì nó vui ra mặt. Nó cắt bản tin ra và xếp tờ báo lại bỏ vào túi quần rồi rón rén mở cửa đi ra. Nó giật thót người khi nghe tiếng má nó hỏi:
“Mi đi đâu vào giờ nầy?”
Nó gãi đầu, vò tóc cho rối nùi rồi ấp úng đáp”
“Dạ! Dạ…. Con… con đi ra biển ngắm trăng với thằng Bon.”
“Giờ ni mà ra biển ngắm trăng. Mi có điên không?”
“Tụi con có hẹn mà. Đông lắm mẹ ơi!”
Bà lườm nó một cái nhưng giọng bà dịu dàng:
“Mi đi rồi mấy giờ về nhà?”
“Khoảng 9 giờ tối nghe má.”
“Ờ! Đừng có về khuya. Tao chờ đó. Mi có gặp ông Sấm không?

Thằng Biển ngạc nhiên khi nghe má nó hỏi thăm ông Sấm. Nó không dám nói cho má nó nghe ông Sấm đã được bạn bè vớt ông trên biển. Không ai biết được người đàn ông tên Sấm đã lên kế hoạch đánh chìm tàu bọn Tàu phỉ. Đó là khởi đầu của một cuộc đánh trả, báo thù và cũng là tiếng nói cảnh báo cho bọn Tàu phỉ hiểu rằng con dân Việt Nam không thể sống hèn và nhục mãi được. 
“Má không còn ghét ông Sấm nữa sao?” - Nó ngập ngừng hỏi.
“Không. Bây giờ má hiểu nhiều về ông ấy rồi. Nhưng rất tiếc bây giờ ông ấy chết rồi. Còn một tháng nữa đến ngày giỗ đầu của ba mi. Má sẽ thắp nhang cầu nguyện cho vong linh ông Sấm được bình an.
Thằng Biển hớn hở nói:
“Ông Sấm là người hùng của làng mình phải không má?”

Người mẹ mỉm cười và mắng yêu:
“Tổ cha mi. Hỏi làm chi rứa. Đi cho sớm rồi về.”
Thằng Biển ba chân bốn cẳng chạy một mạch ra biển. Nó biết đêm nay là đêm cuối cùng nó có thể gặp được ông Sấm. Ngày mai. Căn chòi của ông sẽ có người đến tiếp thu. Chính quyền có thể vỡ căn chòi hoặc có thể cho ai đó dọn vào ở. Mấy ngày nay, chính quyền ra lệnh lục xét và tìm kiếm xem ông Sấm có liên quan gì đến vụ làm nổ chiếc tàu của bọn Trung cộng hay không? Nổ thì đã sao? Bọn chúng giết dân làng mình quá nhiều. Chúng giết ba mình, giết bà con hàng xóm và bạn của mình thì phải đền nợ máu chớ. Tại sao chính quyền có hải quân, có công an, có quân đội mà chỉ để cho dân chống chọi với bọn Tàu bằng hai bàn tay không như ba nó. Nó suy nghĩ mênh mang và quên rằng hai bàn chân nó đã ướt đẫm nước biển. Ngọn gió trong lành thổi nhè nhẹ vào bờ. Mùi nước biển quen thuộc làm nó khoan khoái. Nó đi dọc theo bờ biển khoảng mười phút thì thấy nhiều bóng người đang ngồi vây quanh sau một tảng đá lớn giả vờ câu cá. Nó hồi hộp, và lo lắng và sợ công an theo dõi nên vừa đi vừa quan sát xung quanh. Khi nó đến gần
đã nghe tiếng ông Sấm gọi:
“Chú đây!”
Ông Sấm đứng dậy. Hai cánh tay ông dang rộng ôm chặt thân hình bé nhỏ của nó. Ông nghe tiếng nó khóc thổn thức:
“Lần nầy chú đi luôn phải không? Cháu sẽ buồn và nhớ chú lắm!”
Ông Sấm ôm nó vỗ về:
“Chú không thể ở lại đây đâu. Chính quyền đang truy lùng chú. Họ thích dùng vũ khí, bạo lực với dân. Nhưng trước ngoại bang thì họ im lặng cúi đầu chịu nhục. Nếu chú bị bắt cháu cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra phải không?”

Thằng Biển gật đầu nhè nhẹ:
“Cháu biết. Má cháu nói rằng chú đã chết. Còn những người khác thì nói chú đã bị cá mập ăn thịt.”
“Như vậy tốt đó! Chỉ có bạn bè chú và vài người biết chú còn sống. Đêm nay chú phải rời khỏi hải phận quốc tế.”
Thằng Biển ngỡ ngàng hỏi:
“Chú vượt biên sao?”
Ông Sấm xoa đầu nó:

“Không còn con đường nào để lựa chọn. Chú phải đi. Đã có người lo cho chú. Chú không thể ở lại đây. Chú đã làm những chuyện không ai dám làm là giết bọn Tàu cộng cướp biển, cướp đất của ta. Khi cháu lớn lên đừng sống ươn hèn, hưởng thụ, ăn chơi, đâm chém nhau như nhiều thanh niên trong xã hội Việt Nam hiện nay. Có sống phải cho ra một con người, có chết cũng phải chết cho xứng đáng một con người. Nhớ lời chú dặn.”
Một chiếc tàu đánh cá xuất hiện trên biển như một chấm đen và một chiếc ghe thúng đang tấp vào bờ sẵn sàng đón ông. Ông Sấm đeo túi xách nhỏ lên vai. Ông ôm thằng Biển nói:
“Cháu ở lại học hành ngoan ngoãn. Chú sẽ gởi thư về thăm cháu.”
 “Chú là người anh hùng thời đại.”
“Thật vậy sao? Chú làm gì mà họ gọi là anh hùng?”
“Chú làm nổ tung con tàu của bọn Chệt có đuôi.”
Ông Sấm cười khà khà:

“Nầy! Đừng có nói như vậy là chú bị nhà nước bắt bỏ tù không có ngày về. Chú chẳng có làm gì hết. Trên tàu của họ có vũ khí thì phát nổ là chuyện tất nhiên.”
Thằng Biển thì thầm vào tai ông:
“Nghe nói bọn nó chết bộn. Chiếc tàu mấy trăm tấn nổ tan tành… Đáng đời bọn khốn kiếp…”
Tiếng người trên ghe thúng gọi:
“Nhanh lên để không còn kịp.”

Mọi người vây quanh ông Sấm. Họ ôm ông và chúc ông lên đường may mắn. Thằng Biển khóc sụt sùi. Nó lấy trong túi quần ra tờ báo nhét vào tay ông Sấm và nói:
 “Báo đăng hình con tàu Sấm Chớp và hình chú  nữa. Chúc chú bình an”.
“Cảm ơn cháu. Lớn rồi đừng có khóc nhè như con nít.”

Ông Sấm chùi nước mắt trên mặt nó rồi bước xuống chiếc thuyền thúng xoay tròn. Người chèo thuyền thúng từ từ đưa ông ra khơi. Trăng soi sáng mặt biển. Sóng từng lớp xô mạnh vào bờ, cuốn theo hàng ngàn bọt biển trắng xoá. Ông Sấm ngước mắt nhìn làng Ngư Sơn lần sau cùng. Ông cũng không biết đến bao giờ ông mới trở lại nơi đây. Những người bạn trong làng đã lần lượt trở về nhà. Trên bờ biển chỉ còn lại cái bóng bé nhỏ của thằng Biển đang ngước mắt nhìn theo. Ông cũng không biết rồi đây những đứa trẻ như thằng Biển, lớn lên nơi làng chày nghèo nàn, cơ cực nầy, chúng có còn mơ ước theo cha đi làm nghề đánh cá? Hay chúng sẽ phải rời bỏ mảnh đất làng quê để tha hương cầu thực? Làm sao tìm lại được cảnh an bình cho những người ngư dân khốn khổ ra khơi tìm chén cơm, manh áo. Ông muốn làm việc lớn. Nhưng ông cũng chỉ là một cánh hải âu cô đơn trên sóng nước mênh mông của đại dương. Một cánh chim hải âu không thể chống chọi được với sóng to, bão lớn… Ông ngoái lại nhìn bãi biển lần sau cùng. Bóng thằng Biển chỉ còn là một cái chấm đen nhỏ xíu lơ lững giữa bãi biển vắng lặng. Nước mắt ông bỗng lăn dài trên má.

Phong Thu

(Trích Kỷ Yếu 20 Năm VH Cội Nguồn)

Sunday, April 14, 2013

Hãy TRả LạI Sự THậT LịCH Sử



Ông Bùi Tín, cựu Đại Tá Quân đội Nhân dân VN, nguyên Phó Tổng Biên Tập báo Nhân Dân, người có mặt đầu tiên taị Dinh Độc Lập sáng 30 tháng 4-1975 để nhận bàn giao và  “tiếp thu” chiến lợi phẩm. Ông Bùi Tín là người nhận “suông” 16 tấn vàng từ bộ trưởng Kinh Tế VNCH Nguyễn Văn Hảo. 16 tấn vàng sau đó ông Đỗ Mười và Bộ Chính Trị chở về Hà Nội chia nhau. Ông Bùi Tín hiện sống ở Paris, là nhà báo tự do, ông đã viết rất nhiều bài về giai đoạn lich sử VN sau ngày CS chiếm miền Nam.  Bài viết dưới đây của tác giả bộc bạch nỗi hối hận, dày vò đay nghiến tâm trí của ông về hiện tình đất nước. 


NGÀY 30 THÁNG 4: GIẢI PHÓNG Ư? ĐỘC LẬP Ư?
[Phát biểu nhân kỷ niệm ngày 30-4-2008]

*Bùi Tín

Nhân dịp đánh dấu kỷ niệm lần thứ 33 ngày Quốc Hận 30-4 năm nay, cựu Đại tá VC Bùi Tín, hiện đang sống tại Pháp, đã trả lời phỏng vấn của một số nhà báo trong và ngoài nước. Bài phát biểu của ông đã làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Có lẽ đây là lần đầu tiên ông Bùi Tín đã nói thật và nói thẳng bằng những lời thật chân thành của ông vào cuối cuộc đời mình cũng như cụ Hoàng Minh Chính.
Trân trọng kính mời bạn đọc theo dõi.

*
33 năm đã trôi qua, theo tôi, với khoảng cách thời gian dài để có thể suy ngẫm sâu sắc và nhận ra sự thật lịch sử, mọi người Việt Nam, kể cả những người Cộng sản, cần đính chính một nhận thức sai lầm nguy hiểm đã bị những người lãnh đạo cộng sản áp đặt theo kiểu cưỡng hiếp mọi người dân phải thừa nhận. Họ chủ trương đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu từ 1960 đến 1975 là chính nghĩa nhằm giải phóng và thống nhất đất nước, và ngày 30-4 là ngày Toàn thắng Vĩ đại.
Giống như xưa kia Giáo hội La mã cưỡng bức mọi người phải thừa nhận trái đất là một mặt phẳng, ai nói khác là phạm trọng tội, là nói sai chân lý. Có người đã chịu hoả thiêu để khẳng định rằng: "Không! Trái đất không phẳng! Nó hình cầu và nó quay!" Nay ai cũng nhận ra Chân lý ấy. Có điên mới nói khác.
Hôm nay tôi sẵn sàng nói to cho mọi người nghe rõ: Đất nước Việt Nam ta sau ngày 30-4-1975 không hề được giải phóng, cũng không hề được thống nhất. Ngày 30-4, đảng cộng sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống trị bởi độc quyền đảng trị.
Đảng cộng sản đã thực hiện chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam, bỏ tù và quản thúc hàng triệu người dân, tước đoạt của cải của dân qua đổi tiền và cải tạo, thải loại ngay Mặt trận Dân tộc Giải phóng, gây thảm cảnh hàng triệu thuyền nhân. Như thế mà là giải phóng, là thống nhất ư?
Sau 30-4-1975, chỉ riêng đảng cộng sản cầm quyền, không cho ai lập hội, không cho một tư nhân nào ra báo, không cho tự do ứng cử và bầu cử, thế mà gọi là giải phóng dân tộc ư? Là tự do ư?
Còn nay thì đảng giàu, giàu sụ, dân nghèo, nghèo rớt. Thống nhất kiểu gì vậy? Phát triển kiểu gì vậy?
Một nước "độc lập" mà buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, để bị mất đất, mất biển hàng trăm, hàng nghìn kilômét vuông, mất đảo, mất vô vàn tài nguyên hải sản; rồi người nước ngoài muốn đuốc của họ đến nước ta, vào lúc nào, ở đâu là do họ quyết định; bộ trưởng ngoại giao của họ lại còn sang thủ đô ta để giao nhiệm vụ cho bộ trưởng ngoại giao, cho thủ tướng và cho chủ tịch quốc hội phải bảo vệ đuốc của họ cho triệt để, và còn cho an ninh vũ trang của họ vào tham gia đàn áp nhân dân nếu có biểu tình ôn hoà... thì thử hỏi nước ấy độc lập ở chỗ nào? Có chủ quyền ở chỗ nào? Những người lãnh đạo của ta có còn chút thực quyền, có còn chút tự hào dân tộc gì nữa đâu! Người Việt chân chính tự trọng không xử sự như thế!
Đây là điều mỗi người Việt ta ở trong hay ngoài nước hãy suy nghĩ cho kỹ nhân ngày 30-4 năm nay.
Tôi mong tuổi trẻ trong nước trau dồi tư duy độc lập, tự suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình, và đọc bài luận văn ngắn của nhà triết học Pháp trứ danh Jean - Francois Revel: "Hồ Chí Minh: Sự tước đoạt lòng yêu nước". Bài luận văn sắc sảo chỉ thẳng ra sự thật phũ phàng, là ông Hồ và đảng CS đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam để phục vụ cho một mưu đồ phe đảng của ông ta, để thoả mãn mục tiêu thống trị thế giới của Quốc tế Cộng sản III. Chữ "détournement" theo tiếng Pháp có nghĩa khá rộng là "tước đoạt", "lấy trộm, lấy cắp", "của người khác xoáy làm của mình", "chuyển thành, biến thành của mình".
 Đọc xong, tôi ngấm sâu ý nghĩa của từ "tước đoạt", và cảm thấy mình như bị mất cắp, mà mất cắp cái gì quý lắm, vô giá. Cả tuổi trẻ đầy lý tưởng và nghị lực, cả mấy chục năm bị đánh lừa, bị móc túi, bị gạ gẫm, đến gần cuối đời mới tỉnh ra, mà thương hại, mà tiếc thay cho bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh!
Giả thử trong cuộc đời thường, một người bị mất cắp chiếc xe máy, chiếc đồng hồ đắt tiền, chiếc nhẫn vàng kỷ niệm ngày cưới... hẳn là tiếc nuối vô cùng, xót xa hằng tháng. Thế mà biết bao người đã bị lừa cả cuộc đời, có khi mất cả mạng sống, và hàng triệu triệu anh chị em, dòng họ, đồng bào mình cũng bị lừa hàng nửa thế kỷ! Một cuộc ăn cắp, lường gạt khổng lồ. Hãy chỉ cho nhau kịp thấy đi, để mà tiếc, mà xót xa, mà đòi lại quyền sống tự do cho mỗi người, mở ra cuộc đấu tranh mới giành lại độc lập thật sự và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
30-4 năm nay, tôi vui vẻ nhẹ nhàng lắm. Tôi có thêm biết bao bạn quý, từ khi là nhà báo tự do 18 năm nay. Bạn trong nước, ngoài nước, bạn già, bạn trẻ, bạn rất trẻ. Tôi viết không theo lệnh ai, không phải đưa ai duyệt, chỉ có theo lương tâm và trí tuệ, không sùng bái ai, chỉ sùng bái sự thật. Tuổi già tự do thế này thật đáng sống. Khó khăn vật chất mà sướng vô kể.
Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày 30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết.
Để làm gì cơ chứ ? Để đất nước ra nông nỗi này ư ? Độc lập, không ! Tự do, không ! Chủ quyền, không ! Về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!
30 tháng 4 năm nay, tự thâm tâm, tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bè bạn và đồng chí cũ của tôi, hãy quý trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình, nếu bạn thấy lòng yêu nước ấy đã bị ai đó "xoáy" mất để dùng vào mục đích đáng nghi ngờ và đen tối, thì hãy lên tiếng tố cáo và tự tách mình khỏi trò lừa bịp và đánh cắp trắng trợn ấy !
   Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước hương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt Nam tỉnh táo và tử tế đấu tranh cho một Tổ quốc Việt Nam thật sự độc lập, thật sự tự do, dựa vững vào Lịch sử Dân tộc và Thời đại.
Kính chào các bạn.
Paris 28-04-2008
Bùi Tín

Thursday, April 11, 2013

30 tháng Tư Kết Thúc Chiến Tranh Mở Đầu Cuộc Đổi Đời Khốc Liệt





                                    
 Di tản trên một cao ôc, trụ sở của CIA tại đường Gia Long, Sài Gòn ngày 29/4/1975.
  [Ảnh của ký giả nhiếp ảnh Hòa Lan Van Es]





VIET DIASPORA 
Hai máy bay C-130 Hercules từ căn cứ không quân Clark tại Philippines đang bay phía trên sân bay Tân Sơn Nhất. Họ được lệnh không hạ cánh. Trinh thám báo tin về sân bay: 2 trung đội bộ binh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được tăng viện cho công binh.
Một phi công Việt Nam Cộng Hòa đã hạ cánh máy bay chiến đấu F-5 trên đường băng và bỏ lại phương tiện trong khi máy vẫn chạy. Một chiếc xe jeep toàn lính Việt Nam Cộng Hòa cố chạy tới một chiếc máy bay trước khi nó cất cánh.
"Có khoảng 3.000 thường dân rất lo lắng đang ở đường băng", tướng Homar Smith báo cáo. "Tình hình có vẻ như đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát".
Graham Martin ngồi một mình trong phòng làm việc, nhìn thấy cây đổ và nghe thấy tiếng trưởng văn phòng CIA thét ở ngoài sân. Khi Kissinger gọi điện thoại ngay sau đó để thông báo ý của Tổng thống Ford là đại sứ Mỹ sẽ ra quyết định cuối cùng về chuyện di tản, ông lắng nghe giọng mệt mỏi, kiệt sức và ốm yếu của Graham Martin một cách kiên nhẫn.
10h43': Lệnh tiến hành "Option Four" (di tản bằng đường biển và đường hàng không) được đưa ra. Tuy nhiên, Martin vẫn tin chắc rằng vẫn "còn thời gian" để đàm phán và có một "giải pháp danh dự".
John Pilger 

[ Sài Gòn ngày 30 tháng Tư 1975 trong mắt một phóng viên Anh ](*)

==

Đó là một ngày dài nhất trong đời tôi. Từ 8 giờ sáng, tôi bắt đầu ngồi đợi giờ thứ 25. Tôi bước ra hành lang lầu 3 của cơ quan đứng nhìn sang, xem hoạt cảnh những chiếc trực thăng của Hải quân Mỹ thay nhau lên xuống trên nóc tòa nhà sứ quán Hoa Kỳ, trên đại lộ Thống Nhất.
Năm giờ chiều hôm đó, ngày 29 tháng Tư, tôi rời khỏi nhiệm sở sau khi thẩm quyền cao nhất của cơ quan cho biết một cuộc di tản như kế hoạch được thỏa thuận và sắp xếp trước với phía Mỹ đã hoàn toàn hết hy vọng. Tôi lái xe ngang qua Tòa Đại sứ Hoa Kỳ để tận mắt nhìn thấy những chiếc trực thăng kia chở đi bao nhiêu định mệnh may mắn ưu tiên, và bỏ lại bao nhiêu số phần tuyệt vọng. Một con số không thể nào đếm được. Giờ phút đó, nơi đó có hàng trăm người nhưng còn các nơi khác, con số ấy là hàng trăm ngàn, hàng triệu...
Một khoảng đường phía trước sứ quán Mỹ số người tụ tập khá đông, tình hình không còn kiểm soát được nữa. Mọi người hốt hoảng tìm đủ cách để có thể thoát thân. Một người Mỹ lái chiếc xe hơi bóng loáng tấp vào lề, vừa mở cửa bước xuống, một đám thanh thiếu niên bụi đời xúm vào làm thịt chiếc xe. Người Mỹ tay cầm cái samsonite vừa leo lên khỏi bức tường rào, một người lính Marine từ phía trong khuôn viên sứ quán ôm súng xốc tới nhảy lên đạp người Mỹ kia rơi xuống.
Tất cả hy vọng, niềm tin và lý tưởng người Mỹ đưa tới nơi đó, từ giờ phút đó cũng rơi theo! Tôi lái xe chạy thẳng về nhà, hệ thần kinh không phải căng ra mà chùng lại.
Đoạn tường thuật trên đây của phóng viên John Pilger có lẽ là sự kiện của những ngày giờ trước khi chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống và rời khỏi nóc nhà,bay ra hạm đội ngoài khơi.
Người dân miền Nam sau những ngày hỗn loạn; và người dân Sài Gòn sau mọi cố gắng đi tìm con đường di tản vượt thoát bất thành, tất cả bàng hoàng trước cơn ác mộng đổ ập xuống mỗi con người, mỗi gia đình khi chứng kiến cả một chế độ, cả một giềng mối quốc gia sụp đổ. Người dân ngơ ngác hoang mang trước một cuộc đổi đời khốc liệt. Nỗi ám ảnh, sợ hãi một quá khứ còn tươi máu chưa rời: những tàn bạo trong thời chiến, những vụ bắt cóc, ám sát, phá đường, giựt sập cầu, giựt mìn xe đò, pháo kích, bắn tỉa... 
Nỗi ám ảnh đó đã thẩm nhập vào tim óc mọi người, từ thôn quê đến thành thị, mà không cần phải học tập, tuyên truyền. Bởi người dân miền Nam đã từng chứng kiến, từng trải qua, từng chịu đựng, từng là nạn nhân, kẻ mất con, người mất cha, mất chồng, mất vợ....
Người ta tưởng rằng hàng chục triệu người dân miền Nam chỉ hoảng loạn trong những ngày Sài Gòn thoi thóp và thất thủ. Khi “cách mạng” về thành thì biến động coi như đã xong, đời sống sẽ trở lại bình thường. Nhưng kể từ ngày đó, cơn ác mộng mới thực sự đổ ập xuống, âm ỉ nhưng kinh hoàng hơn, trên từng gia đình, từng thân phận mỗi con người, từ em bé cho đến người già yếu gần đất xa trời.
Sau khi mọi chuyện đã đâu vào đó, người ta không còn hoảng hốt, tứ tán tìm đường trốn chạy. Ai đã về nhà nấy. Lặng lẽ, âm thầm chuẩn bị cho một cuộc vượt thoát liều mạng kéo dài liên tục trong gần 20 năm. Một bộ phận hàng triệu con người đã phải tách rời khỏi cộng đồng dân tộc. Đó là cuộc  trốn chạy bi thảm nhất trong lịch sử năm nghìn năm của dân tộc Việt. Từ đó một “Diaspora Vietnam” rải rác khắp nơi trong cộng đồng nhân loại.

**
VIET DIASPORA 
 
Đi theo dấu vết thời gian và lần giở tài liệu cho tới hôm nay, chúng ta đã có được một bản “thống kê đại cương” như sau:
Trước năm 1975 chỉ có khoảng 3000 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, gồm nhân viên Ngoại giao VNCH, và sinh viên du học sống rải rác tại vùng Hoa Thịnh Đốn và các đại học thuộc các tiểu bang Maryland, Virginia, New York, Massachussets, Wisconsin, Michigan, Minnesota, Illinois...
Sau biến cố 30 tháng Tư 1975, tiếp theo các đợt di tản là những cuộc vượt thoát, người Việt ào ạt đổ vào Hoa Kỳ, mở đầu cuộc trốn chạy bi thảm, vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc dưới tên gọi di tản (evacuation), thuyền nhân, ODP và HO ... để trở thành những refugees trôi nổi khắp mọi miền trên trái đất.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc và Cơ quan American Census Bureau, nhân số trong đợt đầu di tản là 135,000, trong đó 40% thuộc Thiên chúa giáo, 48% có bằng cấp và 7% biết nói ít nhiều tiếng Anh.
Kết quả cuộc điều tra của Nhật báo Los Angeles Times năm 1990 thì sau khi Cộng sản mở các đợt tịch thu và quốc hữu hóa tài sản ở miền Nam vào những năm từ 1978 đến 1984 và khi cuộc chiến tranh biên giới Việt Hoa bùng nổ vào tháng 2 và tháng 3 năm 1979, có 276,000 người Việt gốc Hoa thoát ra khỏi Việt Nam.
Và từ tháng 7-1978 đến cuối tháng 12-1980 nhiều đợt thuyền nhân vượt biển qua các nước Asean.
Tài liệu của Cao Uy Tỵ nan Liên Hiệp Quốc đưa ra con số thống kê, có 650,000 người đến được bến bờ, nhưng nhiều chục ngàn người (khoảng 30% của tổng số thuyền nhân đã thiệt mạng). Theo thống kê này thì từ năm 1975 đến 1985 có khoảng 1 triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi.
Trước thảm trạng khủng khiếp đó, tháng 7 năm 1979 Liên Hiệp quốc đã triệu tập môt cuộc họp tại Geneve, Thụy Sĩ, gồm 46 quốc gia tham dự nhằm tìm biện pháp để giải quyết tình trạng. Ngày 20 tháng 7-1979 các quốc gia đã ký kết một thỏa thuận chung buộc Hà Nội phải hợp tác để giải quyết vấn đề.
Cũng xin nhắc lại, sau 25 năm, lịch sử lại một lần tái diễn tại cùng một địa điểm, cùng thời gian để giải quyết về một thực trạng bi thảm của Việt Nam. Ngày 20-7-1954 Hiệp định Geneve ký kết giữa Pháp và Việt Minh chia đôi đất nước, khoảng hai triệu người dân miền Bắc trốn chạy cộng sản di cư vào Nam. Ngày 20-7-1979 Hiệp định Geneve ký kết gữa LHQ, cùng 46 quốc gia với CS Việt Nam để đưa hơn một triệu người Việt ra khỏi nước đến định cư tỵ nạn tại các quốc gia không cộng sản.
Qua thỏa hiệp Geneve, quốc tế đã áp lực chính quyền Hà Nội phải chấm dứt những vụ vượt biên, ra đi “bán chính thức” bằng đường biển và chấp nhận một chương trình ra đi có trật tự – Orderly Departure Program (ODP), cùng với kế hoạch cho ra đi vì nhân đạo – Humanitarian Operation.
Từ thỏa hiệp này, chương trình ODP và H.O lần lượt hình thành và đi vào hoạt động. Đến cuối năm 1992 đã có 380,00 người Việt rời quê hương ra đi bằng đường hàng không. Phần lớn là tù chính trị  được thả ra từ các trại tập trung cải tạo. 60% trong số này định cư tại Hoa Kỳ, 40% đến các nước khác như Úc, Canada, Pháp, Đức..... Cũng theo nhật báo Los Angeles Times, chỉ trong một thập niên (1981 đến 1990), số người Việt bỏ quê hương chạy trốn Cộng sản từ con số 272,561 người năm 1981 vượt lên đến 845,725 người, trong số đó, 800,000 người định cư ở Hoa Kỳ.
Từ năm 1975 đến 1990 có 128,000 trẻ Việt sinh ra tại Mỹ, cộng với 38,885 con lai Amerasian nhập cư từ 1988 đến 1990.
Theo ước lượng của Giáo sư Xã Hội học Ruben G. Rumbaut thuộc đại học San Diego, tính đến năm 1991, số người Việt tại Hoa Kỳ là 1,034,159 người. Tính đến năm 1997, số “Diaspora Việt” trên thế giới có khoảng 2,300,000 người. (**)

SongNhị

----------------------
(*) John Pilger là phóng viên chiến tranh kỳ cựu, nhà làm phim và biên kịch người Anh. Hai lần đoạt "Nhà báo của năm" - giải báo chí cao nhất nước Anh - cho những hoạt động ở Việt Nam và Campuchia. Giải "Phóng viên quốc tế của năm" và "Giải Liên minh báo chí Liên Hợp Quốc.
(**) Theo tài liệu của IRCC- Giao Chỉ - San Jose).

Thursday, April 4, 2013

KHÚC NHẠC TRƯƠNG CHI












BIỆN THI THANH LIÊM
 
 Nữ sinh Trưng Vương (niên khóa 1968- 69)
 Sinh viên Đai Học Văn Khoa ban Triết Tây.
 Thành viên Ban Chấp Hành Sinh Viên Văn Khoa từ 1972 - 75
 Khởi viết với bài tùy bút đầu tiên "NỖI CHẾT" đăng trên tuần báo Văn Hoc Nghệ Thuật KHỞI HÀNH/Saigon 1969 của Viên Linh.
 Cộng tác với tạp chí Văn Học Phật Giáo “Phương Trời Cao Rộng”, Los Angeles  Chánh Pháp, tạp chí Văn Học Phật Giáo của nhà văn Vĩnh Hảo  trietvan.com  dunglac.net  vietcatholic.net 
 Cộng tác thường xuyên tạp chí Nguồn 


KHÚC NHẠC TRƯƠNG CHI

Trăng hạ huyền mỏng, dịu dàng như lá lúa treo lửng lơ ngoài Tây hiên. Tiết thu, trời phơn phớt lạnh. Sau hàng liễu xanh như ngọc bích đứng khép nép trong hoa viên thoang thoáng hương lan... Bên chiếc rèm lụa màu hồng thẳm là đôi mắt vời vợi của thiếu nữ họ Trần tên gọi Mỵ Nương.
Trăng khuya, đêm lạnh… ngoài trời xa… là sóng nước mênh mông… Vậy mà nàng vẫn ngồi đó bên khung cửa Tây lâu nhìn ra dòng Tiêu Tương lặng lờ…. thăm thẳm. Chiếc thuyền nan đơn độc và tiếng sáo diệu kỳ của khách lãng du nào đó tại sao… thoắt nhiên vắng bặt? Lòng dạ nàng rối bời mong đợi, nỗi niềm lẻ riêng ngày đêm canh cánh không biết tỏ thấu cùng ai đã khiến nàng sắc ngọc hao gầy nét xuân héo rũ. Phút chốc, người tiểu thư trong chốn gác tía lầu son bỗng nhiên cảm thân rơi lệ. Phải chi sinh là con nhà dân giã thì nàng đã rảo gót vào chốn phường chài để phăng ra manh mối. Xưa nay cát vẫn trộn lẫn vàng ròng, ngọc cũng hay nằm im trong đá là lẽ thường tình. Đàng nầy nàng là con nhà quan tước lá ngọc cành vàng vốn dĩ gia luật rất nghiêm nên khuê môn bất xuất, mỗi bước đi đều có kẻ hầu người giúp. Ngay cả sách vở chất đầy trong thư trai của cha nhưng muốn đọc quyển nào cũng phải có sự đồng ý của Trần tướng công hay đôi mắt quan phòng của vị thầy già dạy học.
Mỵ Nương, tiểu thư khuê các ngoài “cầm kỳ thi họa” nàng các còn rất thích đọc cổ thi, thêu thùa và họa tranh khi ngắm cảnh trên sông Tương. Những bình minh rực rỡ trên sông tấp nập ghe thuyền tới lui buôn bán, hay xa khơi… bọn phường chài tung lưới thả câu… cho chí đến những chiều hoàng hôn trên bến vắng cô liêu nhan nhác từng đàn chim lượn là về tổ… Và rồi, một đêm vào khuya, trăng non nhếnh nhác. Trời - nước như nở bừng giao ngộ.
Mặt sông như ngừng thở, mây trời như ngừng trôi. Gió bỗng im. Sóng bỗng lặng. Khi tiếng tiêu được cất lên từ một chiếc thuyền câu ẩn hiện lững lờ trong sương khuya đơn độc. Ban đầu tiếng sáo vi vu từng đoản khúc như lời chào thân hỏi làm quen cùng cỏ cây mây nước… phút chốc bỗng vút cao thanh thản. Vạn vật đã chuyển mình cùng ngân nga hoà điệu vào tiếng nhạc sáo diệu kỳ như từ cõi trời của trăng sao vằng vặc tỏa hương thanh khiết xuống trần gian. Giây lâu tiếng sáo thoắt dịu xuống cung Hồ trầm thiết… như kéo trăng lả lơi xuống từng đợt thủy triều lấp lánh sóng vàng ấm nồng. Rõ ràng tiếng gió lao xao cũng đồng tình với lá hoa cây cỏ như thiếp mê trong đêm trăng ngọt mây lành. Rồi âm điệu thần kỳ luyến láy sang cung Cống ngất ngưởng gợi ý một con thuyền vượt qua muôn trùng sóng dữ đầy dẫy những thác ghềnh bẫy rập để hạnh ngộ với bến bờ uớc vọng. Nhưng kìa. Chiếc thuyền bỗng chao nghiêng rẽ nước và tiêu lang chợt đổi khúc thăng trầm, âm nhạc vỡ bùng như tiếng vó ngựa xôn xao lâm trận với cờ bay trống lệnh… rồi dịu dặt nỉ non như nỗi lòng cô phụ bi ai trong đêm trắng đợi tình. Lúc nan thuyền lững lờ giữa sông nước… thì âm hưởng cung bậc như tràn ý niệm con người lóng lánh hương yêu mà nghe như chen chúc giữa những muôn ngàn của nôn nao giận hờn thương ghét …
Thanh âm vẫn lan nhẹ trên sông mà Mỵ Nương nghe cõi lòng như trùng trùng xao động. Sự bình yên trong khiêm cung gác ngọc đã bị tiếng sáo nhẹ nhàng khua vỡ. Khi “tâm” Mỵ Nương rỗng rang đã chấp cánh cùng “ý tình” cho suối nhạc trong suốt như mây trời nhẹ len vào tâm khảm nàng lắng sâu bất tận. Nàng nghe lòng mình bừng lên lẽ sống mới, đó là một tình yêu thuần khiết giao cảm với âm thanh như có một ma lực quyến rũ lạ kỳ. Nhưng thời đang tuổi cập kê nên Mỵ Nương ấp ủ lòng yêu thành những mộng tưởng thêu dệt tuyệt vời từ nơi những trang Kinh Nhạc, Cổ Thi mà nàng đã đọc bấy lâu về hình ảnh người dạo trúc tiêu hẳn phải là một trang tu mi nam tử mới ngao du một mình với sông nước khuya hôm. Manh thuyền nàng nghe lời đồn là xuất từ chốn làng chài xóm Hạ… nhưng tiêu lang chắc phải bậc siêu phàm? Khi tiếng sáo cứ trong đêm rong chơi cùng sóng bạc trăng thanh thì nàng cũng canh khuya thức trắng để bầu bạn cùng tiếng sáo theo gió len vào tân thư phòng ấm áp. Nay tiếng sáo bỗng mất dạng âm hao lòng nàng chơi vơi đơn lạnh, và từ khắc ấy Mỵ Nương đã biếng nói biếng cười hay viện lẽ sách đèn mà vào Tây lâu tránh mặt.

Đêm nay, bên chánh dinh Trần tướng công cũng đang thao thức. Ánh bạch lạp soi rõ vầng trán rộng của một viên tướng từng cầm quân xông pha trận mạc giờ thoáng nét đăm chiêu tư lự. Một khắc nhíu mày, ngài gọi người hầu cho vời phu nhân vào để ngài bàn việc vì nơi hậu dinh ánh nến vẫn còn thắp sáng… Chắc hẳn là Trần phu nhân cũng vì con mà… thao thức như Ngài?                              
Khi Trần phu nhân bước vào... tướng công thoắt thấy nhân dáng bà đã tiều tụy khác nhiều khiến lòng ngài cũng bâng khuâng khôn xiết. Việc trào ca tướng phủ nhìn thoáng bên ngoài những tưởng an nhàn nhưng nội tình thì bề bộn đa đoan. Thời chiến cũng như khi bình vua tôi noi bước tiền nhân trên dưới một lòng chăn dân trị nước.
Vua lãnh ý quốc sư mở kho phát chẩn vật thực vải vóc ở những nơi mất mùa hay hạn hán, giảm thiểu những nghi thức nơi cung đình làm tổn hao công quỹ. Vua ban chiếu lệnh không xây thêm cung điện lăng tẩm mà lập văn miếu nhằm chiêu dụ nhân tài, dựng bia trụ để ghi nhớ những công thần dựng nước, tạc tượng xây chùa khắp nơi để dạy dân những điều lễ nghi đạo đức. Vua lại dùng tiền thuế tuyển phu khai khẩn đất hoang cấp phát ruộng nương cho những lính già trong chinh chiến. Nội phủ thì tiết giảm việc đàn ca xướng hát mà chú tâm học đạo thánh hiền, cung phi mỹ nữ đều được cắt đặt theo thứ lớp để làm việc hẳn hoi. Ngoài việc chăm lo huý kỵ cho các tiên đế hàng năm các phu nhân còn phải vấn an sức khoẻ lẫn nhau trong những ngày sóc vọng...
Thế nên tướng công cũng có phần xao lãng trong việc chăm sóc phu nhân cho phải đạo, nhất là khoảng thời gian gần đây Trần tướng công đã ưu tư đến những biến chuyển khác thường của cô con gái yêu là Mỵ Nương. Ngài đã cho người dò la và đã nắm rõ nguồn cơn ….
- “Phu nhân hẳn cũng đã thấy gần đây Nương nhi sắc diện đổi thay, trí thần lơ láo nói năng đi đứng không còn linh hoạt như xưa.”
Trần tướng... chưa dứt lời thì phu nhân nước mắt đã lưng tròng:
- “Tướng quân ơi, thật thiếp vô cùng có lỗi với phu quân khi nơi chính triều đã bề bộn việc công mà nội thất thiếp lại không chu toàn việc mọn. Nhưng quả tình thiếp cũng chưa dám tỏ cùng phu tướng về nỗi lo của thiếp e phu tướng thêm bận lòng, là thiếp cũng đã cho vời danh y của nội phủ để chẩn mạch cho con. Họ đều không tìm thấy bệnh tình vì mạch vẫn an tuy thần sắc có phần sụt giảm kém tươi… chắc do nơi tuổi cập kê… nhiều tư lự...”
Trần tướng công bỗng cười ha hả: “Phu nhân đừng quá lo, ta tuy bộn bề việc lớn nhưng vẫn trải lòng đến việc gia tư. Có điều ta chưa tiện nói cùng phu nhân đó thôi, trước đó ta cũng cho vời các thiện tài thanh luật đến thử xướng âm hoà nhạc với Nương nhi thì nó đều từ chối chê bai. Trong yến tiệc gặp gỡ các vương tôn công tử ta lại thử dợm ý con về họ thì nó cũng kiếm cớ thối thoát... Những việc trên trước đó chưa hề ta thấy nơi Nương nhi.”
Trần phu nhân chớp mắt ngỡ ngàng, quả tình bà chưa hề nghĩ ra được cách tìm hiểu con sâu sắc như phu tướng của bà ngoài việc hỏi han thường tình rồi lại lâm vào phiền muộn âu lo.
- “Phu nhân có biết là Nương nhi đã lâm bệnh tương tư đó chăng. Ta đã cho gia nhân theo sát Nương nhi và biết con đã vì nhớ nhung tiếng sáo của anh chàng lưới cá tên gọi Trương Chi ngụ nơi Làng chài bên xóm Hạ...”.
Phu nhân vẫn chưa hết ngỡ ngàng và ngồi lặng yên mà nghe   Trần tướng công nói tiếp: ”Đó là một gã chài côi cút nghèo nàn chỉ độc một chiếc thuyền nan nhỏ bé lưới cá trên sông độ nhật qua ngày. Khi đêm xuống rong chơi với nước trăng sóng bạc, bầu bạn chỉ có ống tre tiêu để trút thoắt nỗi lòng cô lẻ.”
Phu nhân như chợt tỉnh:
- ”... Rồi phu quân định liệu lẽ sao?.. Hay là cho người cấm sông ngăn nước không cho bọn phường chài bén mảng đến ven dinh để anh chàng họ Trương không cớ mà thổi tiêu phô diễn tấc lòng. Hoặc... tướng công xua bắt chàng ta phải rời bến Tiêu Giang mà trôi đi nơi khác? Thiếp trộm nghĩ có được vậy chăng?”
Trần tướng khẽ cau mày sắc giận thoáng qua khuôn mặt đầy cương nghị nhưng không vắng nét nhân hậu của người từng giúp vua chăm dân trị nước.
- Phu nhân theo ta bấy lâu mà vẫn còn chưa hiểu rõ lòng ta và giòng họ nhà Trần, luôn lấy nhân nghĩa làm đầu mà bình dân an nước. Đừng vì lợi việc tư riêng mà vô cớ hà khắc dân oan, ngăn sông cấm chợ. Phu nhân há chẳng nhớ tổ tiên ta khởi nghiệp nhà Trần là Nhân Tông từ năm 16 đã tu thiền khi ngồi trên ngai mà vẫn trường chay thanh tịnh, ngày lâm trào thảo bàn việc nước đêm thì lui về chùa Tư Phúc trong nội thành học đạo với ngài Tuệ Trung Thượng sĩ. Vua thương dân như con đẻ khi trời hạn hán dân chúng mất mùa đói kém là ngài ngủ không yên, dân lâm nạn vì chiến tranh ròng rã thì lòng ngài ruột đau như cắt...”
Rồi phút chốc... khuôn mặt lão tướng như trầm tư đắm chìm trong quá khứ. Thứ ánh sáng của một trời rực rỡ vẫn còn phủ lấp giang sơn và soi rọi đến hôm nay cho con cháu soi theo khuôn mẫu. Ngài rời chiếc đôn nơi bàn thạch đứng lên đi đi lại lại trong tư dinh... và tiếp tục câu chuyện với phu nhân nhưng nghe âm vang như ngài nói với chính mình khua động váng vất thời gian bây lâu yên lắng.
Ngẫm hai chữ ”thiên tử” để tôn xưng vua là con Trời nhưng vua Nhân Tông đời Trần nhà ta đã coi “ý dân” là “ý trời” nên mới có “Hội nghị Diên Hồng” để hỏi ý dân từ các bô lão là “Nên hoà hay nên chiến”, trên dưới một lòng quyết tâm chống giặc Nguyên từ Bắc phương sang xâm lấn. Vua cũng hội ý các tướng lãnh bàn mưu kế trong Hội nghị ở Bình Than để chia xẻ trọng trách chung lo việc nước. Và hai lần ra quân là hai lần vua Trần Nhân Tông đã chiến thắng vẻ vang. Đó là do nơi biết dựa vào lòng dân lấy dân làm gốc.”
Rồi như cảm khái với khí phách tiền nhân lão tướng cất cao giọng ngâm: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã. Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (Vì đất nước hai lần ngựa đá ra quân/ Núi sông ngàn năm vững như âu vàng”). Trần tướng công ngừng lại nhìn phu nhân với nét rạng ngời đầy phấn kích: ”Vậy mà phu nhân có biết, khi yên giặc ngài truyền ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi lên dựng thảo am để tu theo khổ hạnh ở ngọn Tử Tiêu trên núi Yên tử chứ không thọ hưởng vinh hoa phú quý khi đất nước đã an bình. Chính ngài là Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã khai sáng ra dòng thiền Việt Nam mang trái tim và hơi thở của dân tộc khi dành trọn cuối đời Ngài cùng tôn giả Pháp Loa đi du hành mọi nẻo, xiển dương chính pháp với tâm nguyện dựng xây một xã hội đạo đức “nhân gian tịnh độ”.
Phu nhân như lặng thiếp người trong suối nguồn dạt dào của cơn mơ dĩ vãng. Rất “thật” mà cũng rất “hư”. Lượn lờ trong những vang vọng từ quá khứ như đã không có ranh giới của ”ngày qua” và “hiện tại” mà bằng trái tim và chính hơi thở của phu tướng họ Trần: “Ta ơn phu tướng... với thiếp ngài vẫn là người mà thiếp phải thọ ân đã nhắc nhở thiếp qua dòng đời xuôi ngược đảo điên...”
Trần công đặt tay trên vai bà chia xẻ cảm thông: “Ta cũng biết lòng yêu thương đôi khi biến con người thành nhỏ nhoi hẹp lượng, phải luôn tỉnh thức với lòng “từ“ bằng khối óc tinh khôi mới mở khai được tâm lượng nơi chính mình phu nhân ạ. Mỵ Nương, con ta đã “tự buộc mình” để gieo lấy sầu não cho chính mình thì phải để nó “tự cởi trói”. Ba hôm nữa ta sẽ cho mở cuộc xướng âm nơi sảnh đường và phu nhân sẽ thấy lời ta không sai. Bây giờ thì phu nhân có thể lui về hậu phòng mà an tâm ngơi nghỉ. Mọi việc để yên cho ta sắp đặt.”

Sáng hôm sau gia đồng đã gõ cửa tây lâu của tiểu thư Mỵ Nương vui mừng thông báo lệnh của Trần tướng là 3 hôm nữa nơi tư dinh sẽ có một cuộc hội ngộ hòa âm giữa tiểu thư và một danh tiêu trên sông nưóc Tiêu Giang. Trần phu nhân đã y theo lời dặn của chồng cho gia nhân kết hoa giăng đèn để gia trang cùng đón khách tao nhân vui âm xướng họa.
Ngoài Tây hiên của Trần gia trang… ánh trăng vằng vặc… con thuyền đã mất hút tự hôm nao. Tiếng sáo gã thuyền chài bỗng nhiên trở thành là niềm bí ẩn. Nó xoáy hút tâm tư Mỵ Nương xuyến xao trong cơn khát khao nỗi sống… rồi nhẹ tênh như cuộn cả nỗi buồn bay vút trên không. Cõi lòng nàng bỗng trống không như mặt nước. Mênh mông. Thăm thẳm.
Tiếng sáo như một ma lực. Người con gái chốn khuê môn bất xuất bấy lâu như con mèo ngoan ủ mình trong chăn gấm… bỗng choàng mình thức giấc. Ngỡ ngàng.
Tiếng sáo..!... thánh thót như tơ trời nhưng vang động trái tim yên ấm bấy lâu. Trái tim nàng bát ngát không gợn chút buồn phiền hay thù hận. Đó là trái tim trắng. Trái tim thắm tràn mật ngọt thuơng yêu của một tiểu nữ chốn cung son gác ngọc được bao phủ bởi quyền uy gia thế….
Tiếng sáo… đã làm trái tim nàng nhuốm màu trăn trở. Ưu tư và phiền muộn đã khiến nương tử sắc ngọc võ vàng. Và tiếng sáo… Đó là sự lưỡng lự giữa đời thuờng và mộng mị…
Nếu tiếng nhạc trời ấy không xuất từ bậc siêu phàm đại thánh như thi tiêu Lý Bạch với bầu rượu túi thơ ngao du cùng sơn thủy để nơi Tróc Nguyệt Đài trên bến nước Thái Trạch xưa kia tiên sinh đã chẳng ôm trăng mà cứ nghĩ là ngã vào giường thất bảo nơi đế điện cung son…. Thì ắt hẳn cũng phải là trang hiệp sĩ phong lưu… cứu khốn phò nguy xem nhẹ bã vinh hoa chỉ thích đưa mình vào chốn tịch yên sông nước? Hay họa chăng… trang tu mi nam tử ấy cũng lại là đồ đệ của Trương Lương, một sĩ tộc thời Hán Sở tranh hùng… với tiếng sáo thần sầu trên núi Kê Minh trong đêm thu heo hắt đã làm xao động cả ba quân tướng sĩ nản cảnh chiến chinh mà rời bỏ Hạng Vương kéo về quê quán.  
Rồi Mỵ Nương thầm nghĩ, ta cũng không thẹn mình là khách tao nhân, cũng cầm kỳ thi hoạ… nếu gia pháp không quá ngặt nghiêm ta đã xin mẹ cha một phen cùng người xướng âm thưởng nhạc. Vì biết đâu chàng há chẳng là Bá Nha mong tao ngộ khách tri âm nên chẳng nệ nhọc lòng đem đàn ra sông Hán Dương mà gảy. Ta chẳng thể là Chung Tử Kỳ gợi hứng cho đại nhân hay sao?
Qua tiếng sáo dịu dặt… khi thì u trầm như sông quê quạnh vắng lúc thì như mây trắng lãng đãng ở đầu non… Mỵ Nương đã thêu dệt bao nhiêu là hình ảnh của nghệ nhân lãng tử. Đến khi tiếng sáo hốt nhiên ngưng bặt thì trái tim nàng cũng xao xuyến vỡ tan. Nàng hoang mang không hiểu là mình đang mơ hay tỉnh. Vì tiếng sáo như một ma lực vẫn lẫn khuất đâu đây. Nhưng khi chiếc màn trên Tây lâu hé mở…. thì khoảng sông vẫn lặng lẽ đìu hiu. Giấc mơ trong lòng Mỵ Nương trữ tình như hình ảnh Tiên Dung vượt cung cấm rong chơi trên biển cát. Nàng thấy mình hóa thân cùng đoàn thị nữ rũ bỏ xiêm y như cởi buông xiềng xích, hồn nhiên đùa bỡn với cây lá và sóng xanh. Và rồi chàng xuất hiện… dưới đụn cát trồi lên… không mảnh vải che thân. Hồn hậu và ngây lòng. Thản nhiên mà cương quyết. Chữ Đồng Tử là hàn sĩ bần dân thì cũng như người nàng mơ trên bến vắng với khúc nhạc tiêu tương. Và hai người đã từ giã lầu son gác tiá để hưởng hạnh phúc trong đời thường dân giã.
Giấc mơ đôi lúc cũng biến thành cơn ác mộng bi thương. Hình ảnh một Sư Khoáng chọc mắt cho mù để tập trung cái “tâm” của mình vào “ý“ nhạc mà khiến được gió mưa và làm rũ liệt lòng người… Như nàng giờ đây cũng rã rời khi tỉnh khi mê.

Mỵ Nương đã tỉnh giữa cơn mơ. Ba ngày trôi qua đằng đẵng. Thị nữ đã trang hoàng thư phòng cho nàng vui mắt, cây cổ tranh đã được so giây nắn phím…. đợi chờ. Và nàng, Mỵ Nương như cánh hoa héo rũ đã bừng sáng dưới ánh mặt trời.
Thừa lệnh Trần lão gia, Mỵ Nương chỉ được ngồi trong kiệu hoa đặt tại sảnh đường mà hoà âm xướng nhạc với tiêu lang dưới sự quan sát của Trần tướng và phu nhân.
Khi khách vừa đến thì gia đồng vào thông báo có Trương lang đã tới cổng gia trang, bấy giờ Mỵ Nương mới tường được tên chàng là Trương Chi, ngoài ra không biết hơn điều gì…
Tiếng sáo dạo đầu trỗi dậy… hân hoan như phượng hoàng đang vẫy cánh và réo rắt như ngọn nắng xuân giao mùa. Mỵ Nương mừng vui khôn xiết. Nàng cũng bắt đầu ôm đàn hòa điệu. Nàng thoáng nghe âm thanh của “Kim” biểu hiện mùa thu phảng phất chút gió mùa se lạnh, Mỵ Nương như váng vất trong cảnh sắc thu vàng. Chưa dứt bàng hoàng… nàng lại cảm nghe như âm sắc của mùa Xuân ấm áp với muôn ngàn những lộc non đang bừng nở và tiếng chim như ríu rít trên cành. Khoảnh khắc, tiếng tiêu trầm mặc đã chuyển sang cung “vũ“, biểu tượng cho âm thanh của nước nghe sóng sánh tràn bờ và tiếng suối reo trong vắt như đổ từ non cao xuôi về thôn bản. Mỵ Nương không so nổi giây đàn. Người nàng như có lớp tuyết băng đang nhẹ nhàng vây phủ… Nhưng kìa… thanh âm của “chủy” đổ rào… diễn đạt cho lửa hạ tan dần băng tuyết …
 Nàng đã bị khuất phục bởi cảm nhận từ những âm thanh đang hòa quyện lẫn nhau với cảnh sắc tuyệt vời huyễn mộng. Khi tiếng sáo chợt dừng thì nàng cũng vừa bừng tỉnh nỗi dạt dào kỳ thú du nàng vào những bốn mùa của xuân hạ thu đông. Nàng liều lĩnh bảo con thị nữ xin lệnh ông cho nàng được mở rèm diện kiến tiêu lang.
Khi chiếc rèm lay động, người ngọc bước xuống kiệu hoa để tiến đến thi lễ với danh tiêu thì Mỵ Nương bất giác như rơi vào đêm thẳm dù tiếng tiêu đã đoạn dứt từ lâu.
Trước mặt Mỵ Nương sừng sững như khối đá dị hình mọc trên non cao hay rừng dại. Đó là một anh ngư dân chân trần thô kệch với khuôn mặt đen đủi gió sương, đầu đội nón tơi bươm rách, mũi tẹt miệng hô đang ngẩn ngơ nhìn Mỵ Nương mặt hoa da ngọc  khoan thai thả bước trên thảm vàng.
Mỵ Nương bất thần ngã quỵ. Chiếc sáo tre trong tay ngư phủ họ  Trương cũng rớt xuống mặt đất… Vỡ tan.
Trời lúc ấy chớm đông. Bên ngoài… Vài bông tuyết như bắt đầu rơi. Lác đác……                                    

Trương Chi gặp Dị nhân

Cái khối đá đen đủi… chết sững trước nét đẹp thiên kiều bá mị  của tiểu thư họ Trần tên gọi Mỵ Nương… đó là gã lưới cá họ Trương tên Chi ở xóm Hạ nơi làng Chài, trên bến Tiêu Tương.
Trương vốn mồ côi từ tấm bé và lớn lên một thân tứ cố không ai họ hàng thân thích. Thuở nhỏ đã theo dân chài đi biển nên khi lớn lên biết rành mặt nước gió mùa. Trương có thể nhìn sóng mà đoán được con nước nào đưa cá rong chơi hay nghe mùi gió mà tính nước xuôi đi sẽ lành hay dữ. Bọn chài ưa Trương vì tính Trương không thích tranh đua hơn thiệt, được mất không phiền lòng. Có người chê Trương ngốc nghếch vì làm nhiều mà hưởng ít, Trương chỉ cười vì cho điều ấy mình không màng. Với Trương, một mớm cá phơi khô cũng đủ cho dăm ba hôm nghỉ ngơi no bụng… rồi lại nhớ nước nhớ sông mà ra thuyền quăng lưới thì của cải giữ làm chi cho nặng lòng mệt trí. Cái chòi phên trống trước hở sau không thể cất dấu được gì ngoài tấm thân bao năm đã quen cùng trăng khuya sương lạnh. Tánh khí Trương lại dị kỳ, khi thích thì cùng bọn chủ thuyền ra lưới nhưng khi lòng không ưa thì hậu hĩnh mấy cũng chối từ. Trong làng, Trương được tiếng rất cần cù chăm việc… không hề to nhỏ chuyện người nên lớn bé thảy đều ưa. Cả đời dường chừng họ Trương chỉ thích bầu bạn với trời cao mây nước… một thuyền một lưới với chiếc nón lá tơi quanh quẩn nơi bến đá nầy hay khúc sông kia mà nghêu ngao ca hát...
Trong làng Chài cũng có một lão già cổ quái hệt Trương. Người lão gầy đét, mặt mày thì nhếch nhác khốc khô. Dân làng không rõ tên họ lão là chi… mà chính lão cũng chẳng nhớ nỗi tên mình... và họ gọi tôn lão là Bành Tổ. Lâu ngày rồi họ gọi lão là lão Bành vì lão sống quá lâu trong khi những cụ già như lão đã ra đi mấy thuở còn lão thì cứ trơ ra mà sống…
Lão Bành cứ đi rong trong xóm… hễ ai cho gì thì ăn nấy từ Xóm Trung ngược lên Xóm Thượng rồi về lại cái miếu hoang nơi xóm Hạ lăn ra mà ngủ. Nhưng lạ một điều, lão tuy nghèo xác xơ nhưng không một ai dám khinh thường hay chế nhạo. Không hiểu cớ sao nhìn lão bên ngoài trông biếng nói hiếm cười, thong dong mà sống   mặc thế sự nhân tình đổi thay đen trắng… vậy mà chuyện chi lão Bành cũng biết cũng tường. Từ mụ đàn bà nạ dòng trắc nết đến đứa con gái thay tính lẳng lơ… đều không lọt qua đôi mắt kèm nhèm của Bành lão. Nhưng họa hoằn lắm khi cần thì lão mới bộc bạch răn đe những đứa hư hỏng trong làng còn bằng không thì cạy miệng khảo tra đến đâu cũng đừng hòng lão hé môi nhếnh mép.
Lão Bành một hôm bỗng cao hứng kể rằng: Tiểu tử họ Trương kia quả là một tên cổ cổ quái… quái quái cổ.! Dạo kia hắn được chủ thuyền khi trúng mẻ cá lớn đã thưởng cho hắn một bầu rượu nhỏ. Bình sanh Trương không phải kẻ đắm rượu nhưng khi sảng khoái thì cũng mượn tửu sinh tình mà gõ thuyền rẻ sóng hát ca. Khi ánh  tà dương đã sẩm màu khuất sau rặng núi phía tây thì Trương giựt mình mới hay rằng thuyền đã lạc lối. Trương cho thuyền tắp vào bờ men hướng đồi đi miết tới định sẽ nhắm hướng mà về. Đi khoảng độ ăn xong bữa cơm thì bỗng thấy trước mặt có động núi chắn ngang, đông tây thảy đều cây rừng mịt mờ chằng chịt. Không thể phân định trước sau Trương đang loay hoay chưa tính được phải rẽ lối nào… thì bỗng thấy sau hang núi một dị nhân đang đi tới phía Trương. Người thấp… đầu to… dáng đi nặng nề da dẻ xám thẩm khô cằn như đá núi, nhìn Trương cười bảo:
  - Bao năm nhọc thân chỉ vì chút cơm chút rượu… nay mới một ngày xa vắng mà đã lo sợ đến thế hay sao?
Trương thẹn mà rằng: “Ngoài thân nầy tôi không có gì để giữ để lo nhưng hiềm một nỗi chốn lạ… nên không biết dừng lại chỗ nào nghỉ ngơi cho đỡ mệt…”
 - Chốn nầy đã khá xa nơi thôn ấp, đường trở lui cũng đầy hiểm trở… nhưng ta có thể chỉ cho ngươi không hề gì. Ngươi giam thân chốn ấy bấy lâu ngẫm cũng chẳng được chi… nay nhân tiện ta mượn sóng… đưa ngươi đến gặp ta để hỏi xem ngươi có muốn… ở lại với ta… mà bầu bạn cùng chăng?..
Trương trong lòng rất đỗi ngạc nhiên nhưng nghe tâm mình an nhiên kỳ lạ vì dị nhân có vẻ là một người khác thường và chừng như đã thấu rõ tâm can.
Trương bối rối thưa rằng:
- Người… là ai mà hạ mình cùng tôi đến vậy. Từ nhỏ tôi vốn là kẻ nghèo hèn thất học thân xác lại cục mịch vụng về sớm tối chỉ thích sống đơn độc một mình… Lẽ nào dám bầu bạn cùng đại nhân sao?
Dị nhân bật cười khanh khách:
- Chính lẽ ấy… ta mới vời ngươi đến đây. Khối gì kẻ ắp đầy kiến thức mà tâm địa tà mị… thiếu chi những kẻ mang danh trí thức mà đầu óc đặc sệt bùn nhơ… họ chỉ mong lạm dụng cái bên ngoài để giao du tìm cách tiến thân hầu tranh danh đoạt lợi. Như vậy há có ích chi… phường câu cơm móc áo? Còn ngươi? Thong dong một chốn, uống ăn tùy tiện, rảnh rang vào chợ ra sông chẳng lo ai hãm hại tranh tài. Ngươi không nhọc công tìm cầu mà hạnh phúc vẫn đang ở bên ngươi đó vậy….
 Trương nghe như có trăm ngàn ngọn sóng lấp lánh trong từng đường gân sớ thịt, đầu óc Trương tợ như lóe sáng bởi sấm chớp trên non cao. Trong lúc Trương đang bỡ ngỡ nửa tin nửa ngờ thì giọng dị nhân vang lên như tiếng kiếm sắc chém ngọt len vào khối đá mịt mùng: 
 - Ngươi tuy là kẻ thất học nhưng bởi tâm địa rỗng rang thanh tịnh nên mới sản sinh ra được tiếng hát trong trẻo gợi tình. Ta đã đợi ngươi… vì chút tình cảm mến bấy lâu. Nay, ngươi có thuận cùng ta lấy gió núi trăng khuya làm bạn, hang động thanh vắng kia là nhà thì ta sẽ truyền ban cho ngươi tiếng sáo thần kỳ.
Trương cúi đầu lễ tạ:
- Người đã hiểu rõ lòng tôi thì lẽ nào tôi lại chối từ. Nếu được vậy thì xin người cho tôi được sống thác nơi đây …
- Tiểu tử ơi! Dù có muốn, ta thật tình cũng không dám can dự vào “nhân-quả“ của đời mi. Ta chỉ mong trao truyền thanh sáo như món quà tặng đến ngươi vì biết ngươi có biệt tài về thanh âm. Ta khuyên ngươi khi trở về chốn cũ chỉ nên lấy tiếng sáo vui đùa cùng mây nước cho cõi lòng thanh thản… Nhớ. Chớ có dùng nó để sở cầu đoạt ý… thì e tiếng nhạc trời sẽ đổi sắc thay âm. Vậy ngươi có thuận cùng chăng?
Trương suy nghĩ giây lâu… rồi đáp:
- Tôi nào giờ chỉ thích có rong chơi ca hát. Buồn cũng hát mà vui cũng hát… đến nước nằm mơ cũng thấy mình ca hát. Bụng dạ lại trống trơn thì có gì mà tranh cầu mong cạnh.
Dị nhân lại cười:
- Ta hiểu ngươi chứ! Tâm bằng hạnh thẳng… ngươi sống trong cảnh đời tuy duyên sinh nhưng tâm không khởi, tịnh lành như đất thương ghét chẳng để lòng tỉnh-mơ chỉ một. Tâm ngươi cũng gần tâm Phật. Người đời ai nấy đều lưu tâm đặng thất, yêu ghét khắc tạc cõi lòng, ngằn mé thảy cân phân so tính…
Dị nhân chợt nhìn thẳng Trương rồi chậm rãi mà rằng.
- Bao người giam thân giữ ý, thúc liễm tu hành chấp kinh thủ pháp rồi nghĩ rằng mình sách tấn tu hành. Hóa ra thân tuy ở chùa mà tâm vẫn rong chơi cảnh chợ, Động-Tĩnh chưa phân… hoài công trôi nổi đảo điên mãi trong đắm mê chấp trước... Nghĩ cũng chẳng có chi hơn ngươi đâu.
Trương nghe từng mảnh đá như đang vỡ nứt trong đầu:
 - Dám hỏi… vậy chứ người… là ai mà lời lẽ khác thường. Và nơi đây là nơi nào mà vắng lặng thênh thang?
 - Hừm, tiểu tử họ Trương kia ơi, nơi đây không là cảnh giới của tầng trời cũng không thuộc về địa giới mà là cảnh sắc lưu trú của các thần đã được thiên tử sắc phong, hay những công tướng đã chết vì an dân báo quốc. Ta là thần núi hằng trăm năm trấn giữ cõi bờ điều mưa thuận gió. Ta lưu ngươi nơi đây hầu giúp ngươi gạn lọc ý tâm để khi trở lại chốn xưa sẽ có dịp mà trắc nghiệm bổn tâm mình….
Tiểu tử! đã đủ rồi. Thôi hãy theo ta vào thạch thất….

***
Từ ấy, dị nhân và Trương khi thì nghiêm khắc như thầy trò lúc thân thiết như bằng hữu cố tri. Tối trời nghỉ ngơi trong thạch thất, sáng đông đã lên tận trên đỉnh đồi cùng mà hòa nhạc giao âm.
Dị Nhân dạy Trương học “quên” chứ không dụng cách “nhớ”, vì nhớ thì sẽ có lúc ắt  quên. Dùng lẽ đạo theo bản đồ tâm ý mà tâm duyên tâm, cảnh hòa cảnh để khế hợp thanh vào tâm, tâm hòa cảnh, khi tâm-ý thong dong không ngằn mé thì nhạc là mây nối mây, sóng tiếp sóng rừng liền rừng. Trương học nhạc theo Nhân trong cái tâm vốn không để thấy được cảnh vốn tịnh, khi tâm không duyên cảnh để khởi sinh phiền trược thì nhạc là tâm mà cảnh cũng là tâm. Tâm-cảnh nhứt như thì ý nhạc sẽ bao la diệu dụng.
Nhân cho rằng nhạc vốn lâu nay là nguồn suối uyên nguyên của vạn hữu mà khi tâm thức con người đã thật sự vươn lên hòa nhịp cùng thiên nhiên thì tâm giới bao la ắt nhiên khai mở để hội nhập về bổn thể của vạn vật vốn đã chưa hề bị chia cắt phân ly. Nhân cho rằng ngài Khổng Khâu khi soạn Kinh Nhạc dạy cho môn sinh thì cũng như người học vần ghép chữ cốt mưu sinh cầu lợi, chỉ quần thảo nhau trong giữa chốn nhân sinh. Ý nhạc do lẽ trên đã bị kềm thúc giam hãm chỉ nhằm phục dịch trong chốn cung đình cho đúng nghi hợp thức mà lãng quên, đoạn lìa đi cái tâm nhạc hằng có năng lực vươn cao cùng khắp.
Nhân tập họ Trương ngồi lắng yên trong thạch thất cho tâm yên ý bặt và thần trí rỗng rang. Lần hồi Trương có thể lắng nghe tiếng sương rơi trên lá cỏ hay mạch nước thì thầm tìm suối xuôi nguồn, cho tới hơi thở trong từng thớ gỗ chuyển mình thay lá. Khi tiếng nhạc sáo vang lên, khởi từ tâm giới tọa tĩnh, vượt thoát không gian hòa cảm vào từng nhịp sống với thanh âm bổng trầm kỳ diệu, thì năng lực tâm linh của Trương có thể chuyển nhịp được tâm ý người nghe. 
Lúc tiếng sáo khoan thai thì ý nhạc gợi mở ra một vùng trời sông nước mênh mang với những cánh chim lượn lờ trên sóng bạc. Khi nhạc chuyển sang cung trầm-mặc thì hoàng hôn như chợt về.… từng dãy núi  sẫm màu và mây cao trở bước, nghe lẫn tiếng gió ru lá vào đêm cũng ngọt ngào nồng ấm. Tiếng nhạc vút cao vội vã thì gợi cảnh bình minh, muôn thú chuyển mình ngàn hoa nở cánh…. chim có thể đập cánh lên núi cao và bướm cũng khẽ khàng tìm hoa say nhụy
Nhưng rồi… bỗng một hôm, Trương nhìn thấy từng đợt mây trôi trên đỉnh núi xa gợi lòng thấy giống như màu khói nơi quê nhà lãng đãng nhớ thương.
Dị Nhân đã biết, chợt thở dài: “Từ bấy lâu, nhạc đã nuôi dưỡng tâm ngươi nhưng nay thì cảnh đã bắt đầu chuyển khởi tâm ngươi rồi. Đó là dấu hiệu ngươi nên trở về để tự mình trắc nghiệm lại bổn tâm.
Trương về lại chốn xưa, tấc dạ buồn hơn vui, lòng lại cứ mãi bâng khuâng. Chỉ có lão Bành là người duy nhất bình thản đón Trương như vừa mới đi đâu đó, chợt về. Bấy giờ lão đã là sư trụ trì trong am tranh bên chân núi, cũng vẫn chỉ một mình. Trương ở cùng với sư, thầy trò lặng lẽ bên nhau. Chùa chỉ gồm độc nhất tượng Đức Bổn Sư tĩnh tọa bằng gỗ mít cao khoảng 3 gang tay và tràng chuỗi 108 hạt luôn đeo trên ngực, sư không đánh chuông hay gõ mõ mà sư chỉ trì chú. Sư đón Trương với lời dạy một lần:
“Mọi sự thảy do ngươi, lý đạo không nghịch lẽ đời, trước ngươi ở trên non hay nay ngươi dưới núi, cảnh dù đổi dời biến dịch nhưng tâm không trụ bám  nơi đâu thì tự khắc duyên bặt lòng an…”
….Rồi cũng chính sư lại đón Trương trở về từ dinh Trần lão sau khi diện kiến Mỵ Nương. Sư vẫn an nhiên như khi Trương từ núi quay về, sư đã biết trước những lần cửa mà Trương sẽ trải nghiệm qua với nghiệp thức đã tích tụ sâu dầy khó bề phai nhạt, chỉ tiếc một điều là thời gian Trương học đạo với dị nhân quá ngắn.
  Giờ thì Trương đã không còn là Trương nữa, chàng thổi sáo nghèo hèn đã héo khô trơ xác. Tiếng sáo bây giờ chỉ là độc khúc thê lương của cơn lũ cuốn rừng, sấm chớp đã vang rền trong vùng trời tĩnh lặng. Ý nhạc đã trói chặt tâm thức Trương trong bóng hình người ngọc với khối tình vô vọng đơn phương và Trương đã thác trong nỗi oan khiên cô độc.
Mộ chàng Trương được dân chài dựng ghé bên am tranh, thấp thoáng bóng sư cụ chậm rãi thường đi kinh hành nhiễu quanh ngôi mộ trì chú Vãng Sanh cho Trương. Chẳng bao lâu người ta thấy bên mộ mọc lên một cây bạch đàn thẳng tắp, cành lá sum xuê. Lạ một điều, mỗi khi gió từ biển thổi về cây lá như chuyển mình, ai nấy thảy đều nghe âm thanh nhẹ nhàng của tiếng sáo réo rắt trầm buồn như từ đâu nương gió lượn lờ. Sư cụ bấm đốt tay tính ngày, nhờ dân làng đẵn cây gọt thành bộ tách trà tuyệt đẹp đem lên dâng biếu Trần công.
Mỵ nương thấy cha có bộ tách lạ sinh lòng ưa thích, hay ngắm nghía trầm trồ. Muốn con vui, Trần lão sai gia đồng đem bộ tách truyền lại con mình. Đợi đêm rằm, trăng sáng, Mỵ nương dạy gia nhân bày tách thưởng trà để nàng ngắm cảnh trên Tây hiên.
Tiết xuân, trời trong gió ấm. Bóng trăng thượng tuần vằng vặc trên non cao… đan trải những vệt sáng như sương mờ trên mặt nước nhấp nhô khiến Mỵ Nương nghe tâm tư xao xuyến lạ thường. Tiếng sáo như từ cõi trời  nào huyễn hoặc bay về … Hương trà bát ngát trong chiếc tách bạch đàn bỗng lung linh bóng anh chèo đò cô độc, hắt hiu... Nàng ngậm ngùi nâng tách mà không sao ngăn được những giọt lệ cảm thương người chài lưới tài hoa nhưng mệnh bạc.
  Chiếc tách chợt rơi xuống nền gạch. Hương trà mơ hồ gió thoảng giữa đêm, những cánh đào bỗng run rẫy ngẩn ngơ và Mỵ Nương như vừa tỉnh cơn huyễn mộng. Đêm chợt Vô Cùng.
Sáng hôm sau, dân trong làng truyền tai nhau là từ đêm khuya đã nghe tiếng chuông mõ vang lên từ am tranh của Sư cụ tụng kinh siêu độ cho Trương. Có người thấy chuyện lạ vấn sư, tại sao Trương thác đã lâu mà nay sư mới khai mõ cầu siêu? Sư dạy, “Vạn pháp thảy duy tâm, lời kinh tiếng kệ khó bề chiêu cảm được thân trung hữu về cõi an lành khi thần thức Trương bám chờ ứng duyên để được Mỵ Nương đoái tưởng. Nay sở nguyện đã thành, Trương thuận nương theo kinh kệ khai thị mà siêu. Thế mới hay chúng sanh quả thật ngoan cường….”

Biện thị Thanh Liêm

Nói Chuyện Với Thơ

MÙA HÈ CỦA TÔI Nắng ở trên trời, hè - nắng xuống Đã quen rồi từ bao lâu nay Dẫu thiên hạ lắm người than nắng nóng Với tôi thì nắng… ...